Trường Chính trị Tôn Đức Thắng Tỉnh An Giang

Khẳng định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là lý tưởng, mục tiêu và là nguồn gốc sức mạnh của Cách mạng và dân tộc Việt Nam

03:45 06/08/2020

Tóm tắt: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta, Nhân dân ta lựa chọn và khẳng định trong các Văn kiện của Đảng từ mùa Xuân năm 1930, được bổ sung, phát triển qua 12 kỳ Đại hội và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, nhất quán, trong hành trình đi tới mục tiêu vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Từ khóa: độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội…

Học thuyết Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội đã đề cao vấn đề dân tộc, ủng hộ các dân tộc bị áp bức giành độc lập dân tộc, hướng tới xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp. Học thuyết xác định bản thân giai cấp vô sản phải là đại biểu cho phong trào dân tộc và tự mình trở thành dân tộc. Lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin đã kết hợp 3 cuộc cách mạng trong một chỉnh thể: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Nhờ đó mà sức mạnh dân tộc được nhân lên gấp bội. Mặc khác, học thuyết cũng đề cao các giá trị dân tộc, phát huy các giá trị độc lập dân tộc, thực hiện bình đẳng dân tộc trong một thế giới đại đồng.  Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại xuất hiện một học thuyết khoa học và cách mạng, giải quyết toàn diện và triệt để các vấn đề về dân tộc, độc lập dân tộc, bình đẳng dân tộc.

Thực tế lịch sử đã minh chứng: “khác với các chế độ xã hội trước đó luôn tồn tại, thậm chí là nguyên nhân đưa đến thống trị, áp bức, nô dịch giữa các dân tộc, chủ nghĩa xã hội ngay từ khi ra đời với tư cách là một chế độ xã hội đã lập tức ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, là chỗ dựa vững chắc cho phong trào giải phóng dân tộc. Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu tốt đẹp, là phương hướng tiến lên của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc. Phong trào giải phóng dân tộc và phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa luôn gắn bó chặt chẽ, truyền thêm sức mạnh cho nhau để đạt những thành quả to lớn trong lịch sử và hiện tại”.

Những giá trị của mỗi cá nhân, cộng đồng, quốc gia và nhân loại có mối quan hệ biện chứng với nhau. Theo Hồ Chí Minh: “nếu nước được độc lập mà dân vẫn không được hưởng tự do hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Giành được độc lập dân tộc, nhất định phải đưa dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội, bởi những giá trị đích thực của độc lập dân tộc chỉ có thể đạt được trong chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là tiền đề chính trị tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội càng được xây dựng vững mạnh thì độc lập dân tộc với những giá trị đích thực của nó càng được củng cố, bảo vệ vững chắc”

Như vậy, những giá trị của độc lập dân tộc và của chủ nghĩa xã hội luôn hàm chứa trong nhau. Độc lập dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân chính là bản chất của chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chính là hệ giá trị độc lập, tự do, hạnh phúc thông qua giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, thực hiện các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là phát triển con người và xã hội, cá nhân và cộng đồng. Ngày nay, trước sự chống phá ngày càng thâm độc, tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch trên lĩnh vực lý luận, chúng ta cần phải khẳng định nhất quán hai vấn đề sau:

Thứ nhất, khẳng định Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn khách quan của lịch sử Việt Nam.

Các phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX theo lập trường phong kiến hay dân chủ tư sản, tiểu tư sản đều có mục tiêu giành độc lập cho dân tộc nhưng lại sai lầm trong xác định đường lối, con đường phát triển và phương pháp đấu tranh, qua khảo nghiệm của lịch sử đều lần lượt thất bại. Chỉ có xu hướng yêu nước theo lập trường của giai cấp vô sản, gắn giải phóng dân tộc với chủ nghĩa xã hội được khẳng định cả về phương diện khoa học và thực tiễn. Chính lịch sử đã khách quan lựa chọn con đường cách mạng vô sản là con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Sự phát triển theo quỹ đạo cách mạng vô sản đã đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam đi đến thành công, nhân dân ta đã giành lại và củng cố vững chắc nền độc lập dân tộc, là cơ sở vững chắc để phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Khi đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc khảo nghiệm thực tiễn tại nhiều nước tư bản chủ nghĩa, nghiên cứu về cách mạng tư sản; song Người không lựa chọn con đường cách mạng tư sản vì cho rằng con đường đó không mang lại quyền lợi thực sự cho quần chúng lao động và không mở đường cho độc lập của các dân tộc thuộc địa. Khi đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở lý luận cách mạng đó con đường cứu nước đúng đắn: “gắn liền giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người, tức là phải đi tới chủ nghĩa xã hội”. Sự gặp gỡ giữa Nguyễn Ái Quốc với chủ nghĩa Mác – Lênin là sự gặp gỡ tất yếu giữa chủ nghĩa yêu nước với hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của thời đại. Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, gieo hạt giống chủ nghĩa xã hội vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ nghiên cứu lý luận và khảo nghiệm thực tiễn của các nước, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “chủ nghĩa xã hội hoàn toàn có thể thực hiện được ở Châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng, trong đó có Việt Nam”. Con đường cách mạng Việt Nam gần một thế kỷ qua đã chứng minh tính đúng đắn của nhận định trên.

Mùa xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của dân tộc Việt Nam. Từ đây, dân tộc Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã tìm thấy con đường cách mạng đúng đắn để tự giải phóng mình, xóa bỏ ách nô lệ, tiến tới độc lập tự do; sự nghiệp giải phóng dân tộc gắn liền với sự nghiệp giải phóng những người lao động bị bóc lột, áp bức, giải phóng toàn xã hội; cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân ta gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới. Nhờ được dẫn dắt bởi lý tưởng, mục tiêu của giai cấp công nhân, phong trào yêu nước và đấu tranh cứu nước của dân tộc ta đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng triền miên về đường lối, đã nhìn thấy triển vọng lịch sử, đã đi trên con đường lớn của lịch sử: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam (2-1930) nêu rõ mục tiêu đấu tranh của cách mạng và dân tộc Việt Nam là làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập để đi tới xã hội cộng sản. Lần đầu tiên, ở Việt Nam có một đảng chính trị đề ra cương lĩnh cách mạng và khoa học, bao quát được nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc với những giá trị đích thực của độc lập dân tộc và phương hướng tiến lên của dân tộc, giải quyết được cả yêu cầu phát triển của dân tộc và của xã hội Việt Nam. Bởi vậy, ngay khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam lập tức tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân, nắm vững ngọn cờ lãnh đạo cách mạng, đưa cách mạng Việt Nam liên tiếp giành thắng lợi trong đấu tranh giải phóng và xây dựng đất nước.

Thứ hai, khẳng định Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng Việt Nam.

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không chỉ là lý tưởng, mục tiêu mà còn trở thành động lực mạnh mẽ của cách mạng Việt Nam. Khát vọng độc lập cho dân tộc, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân có ý nghĩa to lớn trong việc tập hợp, đoàn kết mọi giai cấp, tầng lớp và thành phần trong dân tộc, tạo nên lực lượng cách mạng rộng lớn và sức mạnh to lớn. Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội tốt đẹp của mọi người Việt Nam. Gắn với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, tinh thần độc lập, tự chủ, tự tôn dân tộc luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam phát huy với quy mô và chất lượng mới.

Vượt qua những hạn chế của lập trường phong kiến, lập trường tư sản, chủ nghĩa xã hội đã đưa đến những nội dung mới và triệt để trong việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc. Đó là: Độc lập dân tộc trên cơ sở độc lập thực sự về kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại giao; độc lập dân tộc phải bảo đảm xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột và nô dịch của dân tộc này với dân tộc khác cả về kinh tế, chính trị và tinh thần; quan hệ giữa các nước dựa trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền dân tộc, cùng đóng góp vào lợi ích chung của các dân tộc, vì hòa bình thế giới, vì sự tiến bộ của loài người. Những giá trị đó chỉ có thể đạt được ở chủ nghĩa xã hội. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt được chân giá trị của nó, đưa dân tộc tới sự phồn vinh về kinh tế, phong phú về tinh thần, dân chủ được bảo đảm. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, dân tộc mới phát huy cao độ sức mạnh của mình, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng, trong xây dựng đất nước, nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, củng cố vững chắc độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là yếu tố quan trọng khơi dậy sức mạnh của dân tộc, có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi to lớn của dân tộc ta.

Tóm lại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chỉ đạo toàn bộ tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước của nhân dân Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ đầu thập niên 20 của thế kỷ XX, Nhân dân ta đã từ chối lập trường cứu nước theo hệ tư tưởng tư sản, với xu hướng đưa đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa - con đường không đem lại độc lập thực sự cho Tổ quốc, cuộc sống ấm no, tự do cho người dân lao động. Gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, Đảng đã huy động được lực lượng to lớn nhất trong dân tộc là các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc. Giành được độc lập dân tộc mà không tiếp tục định hướng xã hội chủ nghĩa là phản bội lại các lớp người đã chiến đấu hi sinh vì lý tưởng này ngay từ trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, đồng thời độc lập dân tộc cũng không được bảo đảm vững chắc./.

Tài liệu tham khảo

(1). Nguyễn Bá Dương, Kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới, NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2014.

(2). Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban chỉ đạo tổng kết lý luận: Báo cáo tổng kết Một số lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.

(3). Đào Duy Tùng: Quá trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (lưu hành nội bộ), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1994.

(4). Ban Tuyên giáo Trung ương, Phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2007

(5). Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996

(6). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998

(7). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, Phần 1, tr. 25

ThS. Đỗ Ngọc Qui - Phòng Quản lý đào tạo và nghiên cứu khoa học

các tin khác