09:39 18/03/2020
Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch UBND cùng cấp là mô hình tăng cường hiệu quả thực thi quyền lực thông qua việc Bí thư cấp ủy vừa nắm quyền lực chính trị vừa nắm quyền lực nhà nước. Đây là một chủ trương lớn của Đảng trong việc sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Từ thực tiễn của tỉnh An Giang, tôi xin trao đổi một số nội dung cơ bản về vấn đề này như sau:
1. Về lý luận: Khái quát chủ trương của Đảng về nhất thể hóa chức danh lãnh đạo Đảng và Nhà nước
Từ chủ trương đổi mới toàn diện do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đề ra, Đảng ta đã nhận rõ tầm quan trọng của việc cải cách về bộ máy hệ thống chính trị, đội ngũ cán bộ, công chức, đặc biệt là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Chủ trương của Đảng về "Việc bố trí bí thư đảng ủy đồng thời làm chủ tịch hội đồng nhân dân hay chủ tịch ủy ban nhân dân tùy theo tình hình cụ thể ở từng nơi." lần đầu tiên được ghi nhận tại Mục II, điểm 2 của Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 18 tháng 03 năm 2002, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 Khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
Chấp hành chủ trương này, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 24/6/2002 về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn. Trong đó nêu rõ: “Từng bước thực hiện chủ trương bố trí đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn theo hướng: Bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch UBND và một Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy kiêm Chủ tịch Hội đồng nhân dân, một Phó Bí thư phụ trách công tác mặt trận, đoàn thể.”
Không chỉ riêng tỉnh An Giang mà các tỉnh, thành trong cả nước cũng từng bước tổ chức thực hiện cho phù hợp với hoàn cảnh điều kiện cụ thể của địa phương.
Cuối năm 2007, cả nước ta sau hơn 5 năm thực hiện thí điểm chủ trương nhất thể hóa hai chức danh cán bộ chủ chốt ở cơ sở, Ban Tổ chức Trung ương Đảng đã đánh giá kết quả 5 năm thực hiện thí điểm mô hình “bí thư kiêm chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã” ở các tỉnh, thành phố, mô hình này đã góp phần quan trọng đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy và ủy ban nhân dân cấp xã. Cụ thể: Có 16 quận, huyện (4 quận, 12 huyện) thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch UBND; có 638 xã, phường, thị trấn thực hiện thí điểm bí thư đồng thời là chủ tịch UBND (417 xã, 167 phường, 54 thị trấn), chiếm 5,7% tổng số xã, phường, thị trấn trong cả nước.[1]
Từ Báo cáo này, Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tiếp tục khẳng định chủ trương: “Thực hiện thí điểm chủ trương nhất thể hóa hai chức danh cán bộ chủ chốt ở cơ sở” tại Mục II điểm 3 của Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 02/02/2008 về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Ngày 28 tháng 05 năm 2013, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI đã ban hành Kết luận số 64-KL/TW, Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Trong đó, tại Mục II, điểm B, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Thực hiện mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân các cấp; bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch Ủy ban nhân dân ở cấp xã, cấp huyện đối với những nơi có đủ điều kiện.”
Năm 2017, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 Khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017, Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tại Mục III điểm 2 ghi nhận: “Cơ bản thực hiện mô hình bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân các cấp; thực hiện bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã ở những nơi có đủ điều kiện.”
Trong quá trình thực hiên mô hình này, chủ trương của Đảng được thể hiện, bổ sung từ việc “thực hiện thí điểm ở cơ sở” (năm 2002) đến chủ trương: “Cơ bản thực hiện mô hình bí thư cấp uỷ đồng thời là Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp” (tỉnh, huyện và xã) nơi có đủ điều kiện (năm 2017). Như vậy, hiện nay trên cơ sở Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 thì chúng ta phải thực hiện mô hình này ở cấp xã, cấp huyện và cấp tỉnh, nơi có đủ điều kiện.
Về nhận thức như thế nào là “nơi có đủ điều kiện”, chúng ta cần chờ thêm các nghị quyết, kết luận hay tổng kết thực tiễn của Trung ương. Ở góc độ nghiên cứu lý luận về “nơi có đủ điều kiện” có thể được hiểu như sau:
1. Điều kiện về tổ chức bộ máy ở nơi thực hiện thí điểm:
- Về tổ chức bộ máy của Đảng nơi dự kiến thực hiện mô hình:
Đạt trong sạch, vững mạnh của Đảng bộ cơ sở, chi bộ cơ sở ít nhất 2 năm liên tiếp; (theo kết quả công nhận hằng năm của tổ chức đảng cấp trên)
- Về tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương (HĐND và UBND) nơi dự kiến thực hiện mô hình:
Chính quyền địa phương ở nơi đã được công nhận nông thôn mới (cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh)
2. Điều kiện về cá nhân của người được dự kiến bố trí giữ chức vụ bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch UBND cùng cấp
- Về lập trường tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức của người được dự kiến bố trí chức danh bí thư đồng thời là chủ tịch UBND cùng cấp; (đạt yêu cầu theo các tiêu chuẩn cơ bản chung và tiêu chuẩn cho vị trí, chức danh bí thư-chủ tịch UBND cùng cấp)
- Năng lực công tác thực tiễn đã lãnh đạo về chính trị, tư tưởng; lãnh đạo, điều hành về tổ chức và hoạt động của UBND hoặc HĐND và năng lực thực hành chuyên môn cá nhân của người được dự kiến bố trí chức danh bí thư đồng thời là chủ tịch UBND cùng cấp; (theo hồ sơ cán bộ về quá trình luân chuyển, điều động; về quy hoạch cán bộ và kết quả hoàn thành tốt, xuất sắc nhiệm vụ ở nơi đã được luân chuyển, điều động)
3. Điều kiện về địa lý, dân cư, đơn vị hành chính lãnh thổ:
- Địa phương nơi thực hiện mô hình này là chính quyền địa phương cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã có đủ tiêu chuẩn của một đơn vị hành chính theo Nghị quyết Số:1211/2016/UBTVQH13 ngày 25 tháng 05 năm 2016 về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại đơn vị hành chính.
- Đối với các địa phương có tính đặc thù: miền núi, vùng cao, biên giới, hải đảo (Trung ương cần có hướng dẫn tiêu chuẩn cụ thể nơi cần thực hiện mô hình này cho phù hợp điều kiện thực tế).
2. Về thực tiễn thực hiện mô hình Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch UBND cùng cấp ở tỉnh An Giang từ năm 2002 đến tháng 10/2019.
Như đã trình bày ở trên, nhằm thực hiện chủ trương của Đảng, từ năm 2002 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang đã ban hành và tổ chức chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 24/6/2002 về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn. Trong đó nêu rõ: Từng bước thực hiện mô hình Bí thư kiêm Chủ tịch UBND cấp xã. Đến nay (tháng 5/2019) tỉnh An Giang đã thực hiện mô hình Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch UBND cùng cấp ở 4/11 đơn vị cấp huyện (huyện, thị, thành) và 118/156 đơn vị cấp xã (xã, phường, thị trấn).
Quá trình thực hiện mô hình này ở tỉnh An Giang có thể khái quát như sau:
Giai đoạn 2002-2009 toàn tỉnh An Giang có 25/156 xã, phường, thị trấn thực hiện thí điểm mô hình Bí thư Đảng ủy đồng thời là Chủ tịch UBND cấp xã. Tuy nhiên, việc duy trì mô hình thí điểm ở hầu hết các xã, phường, thị trấn nêu trên gặp nhiều khó khăn nên đến cuối năm 2009, chỉ còn lại 5 xã thực hiện mô hình.
Giai đoạn 2010-2013: Việc thí điểm vẫn tiếp tục được duy trì và đến đầu năm 2013 tăng lên đến 16/156 đơn vị cấp xã thực hiện mô hình này.
Giai đoạn 2014-2016: Từ việc rút kinh nghiệm thí điểm trong các năm trước, cùng với việc trao đổi học tập kinh nghiệm giữa tỉnh An Giang và tỉnh Quảng Ninh, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ An Giang đã ban hành Kế hoạch số 07-KH/TU, ngày 20/6/2016 về xây dựng Đề án của Tỉnh uỷ về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, sắp xếp tổ chức, bộ máy, tinh giản biên chế nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị trên địa bàn tỉnh, với mục tiêu cụ thể là “nhân rộng mô hình nhất thể hoá chức danh Bí thư cấp uỷ kiêm Chủ tịch UBND cấp xã; thực hiện thí điểm nhất thể hoá chức danh Bí thư cấp uỷ kiêm Chủ tịch UBND cấp huyện ở một số địa phương”.
Có thể nói Kế hoạch này đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng đối với việc thực hiện mô hình Bí thư cấp uỷ đồng thời là Chủ tịch UBND cấp xã ở tỉnh An Giang, sự thay đổi chủ trương từ “thí điểm” sang “nhân rộng” là một quyết định thể hiện quyết tâm chính trị cao của tập thể Đảng bộ tỉnh An Giang trong việc quán triệt thực hiện Kết luận số 64-KL/TW ngày 28/5/2013 của Ban Chấp hành Trung ương (Hội nghị BCH-TW 7 Khóa XI), về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Đến cuối năm 2016, An Giang có 25/156 đơn vị cấp xã thực hiện mô hình này.
TT |
ĐƠN VỊ |
SỐ XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN |
BÍ THƯ CẤP ỦY |
|
Số lượng |
Tỷ lệ |
|||
1 |
Long Xuyên |
13 |
13 |
100.00% |
2 |
Châu Đốc |
7 |
5 |
71.42% |
3 |
Tân Châu |
14 |
14 |
100.00% |
4 |
Tịnh Biên |
14 |
11 |
78.57% |
5 |
Tri Tôn |
15 |
8 |
53.33% |
6 |
Chợ Mới |
18 |
10 |
55.55% |
7 |
Thoại Sơn |
17 |
10 |
58.82% |
8 |
Châu Thành |
13 |
9 |
69.23% |
9 |
Châu Phú |
13 |
13 |
100.00% |
10 |
Phú Tân |
18 |
16 |
88.88% |
11 |
An Phú |
14 |
9 |
64.28% |
12 |
TỔNG CỘNG |
156 |
118 |
75.64% |
Giai đoạn 2017- tháng 6/2019: Tiếp tục thực hiện hành Kế hoạch số 07-KH/TU, ngày 20/6/2016 Ban Thường vụ Tỉnh uỷ An Giang, tháng 3 năm 2017 số lượng thực hiện mô hình tăng lên 27/156 xã, phường, thị trấn. Đến tháng 11 năm 2017 tăng lên 44/156 đơn vị, trong đó huyện Châu Phú thực hiện ở 13/13 đơn vị cấp xã.
Cuối năm 2018, số đơn vị thực hiện mô hình này tăng gần gấp đôi so với năm 2017, từ 44/156 đơn vị lên 82/156 đơn vị; trong đó huyện Châu Phú và thành phố Long Xuyên là 2 địa phương đi đầu với 100% số xã, phường, thị trấn bố trí Bí thư Đảng uỷ đồng thời là Chủ tịch UBND cấp xã.
Đến tháng 6 năm 2019, mô hình Bí thư cấp uỷ đồng thời là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp ở tỉnh An Giang đã thực hiện ở 4/11 đơn vị cấp huyện (tỷ lệ 36,4%) và 118/156 đơn vị cấp xã (tỷ lệ 75,6%).
Theo số liệu thống kê thực tế của Văn phòng tỉnh Ủy An Giang đến tháng 10/2019, tỉnh An Giang có 132/156 xã đã thực hiện mô hình này.
Hiện nay, thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương (Hội nghị BCH-TW6 Khóa XII), Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, Tỉnh Ủy An Giang đã ban hành Chương trình hành động số 19-Ctr/TU ngày 19/4/2018: An Giang phấn đấu đến năm 2020 có 100% đơn vị cấp xã thực hiện mô hình Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch UBND cấp xã và phấn đấu đạt 50% đơn vị cấp huyện thực hiện mô hình này.
3. Kinh nghiệm từ thực tiễn An Giang
Đất nước ta đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức mới trong công cuộc đổi mới và quá trình toàn cấu hóa. Thực hiện thành công chủ trương của Đảng về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả cần đòi hỏi những bước đi thận trọng, lắng nghe, nhìn nhận phản hồi từ thực tiễn, từ xã hội. Việc thực hiện mô hình Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch UBND cùng cấp cũng được toàn Đảng bộ tỉnh quan tâm, sâu sát như vậy.
Từ thực tiễn thực hiện mô hình này ở tỉnh An Giang, có thể rút ra một số bài học quan trọng cần quan tâm sau:
Thống nhất về nhận thức, xây dựng quyết tâm chính trị thực hiện chủ trương của Đảng. Để có nhận thức đúng, mỗi cán bộ đảng viên, nhất là đảng viên lãnh đạo, người đứng đầu phải nắm rõ, nắm vững chủ trương của Đảng trong từng văn kiện, nghị quyết. Quyết tâm chính trị và sự nhạy bén là yếu tố quan trọng giúp mang lại hiệu quả trong quá trình thực hiện, từ việc làm thí điểm đến việc nhân rộng mô hình luôn đầy rẫy những khó khăn, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Thẳng thắn nhìn nhận từ thực tế khách quan cả ưu điểm và hạn chế, từ đó tìm ra giải giải pháp khắc phục, kiên trì, cố gắng sẽ mang lại thành công.
Một bài học kinh nghiệm hết sức quan trọng về công tác cán bộ, có thể nói cán bộ là yếu tố trọng yếu để thực hiện mô hình này.
An Giang là một tỉnh có địa hình đa dạng: có đồng bằng, có sông, núi, có đường biên giới, có cửa khẩu quốc gia, cửa khẩu quốc tế, có vùng dân tộc thiểu số. Do vậy, với đặc điểm này, việc xây dựng, bố trí nguồn nhân lực cho hệ thống chính trị của từng nơi có khác nhau, có tính đến các yếu tố đặc thù nêu trên. Trong đó, đặc biệt là vai trò của người Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch UBND cấp xã ngoài các yêu cầu cơ bản về lập trường tư tưởng, phẩm chất chính trị, trình độ lý luận chính trị, còn phải có năng lực công tác chỉ đạo chuyên môn về quản lý nhà nước đúng pháp luật, đúng thẩm quyền. Đối với các xã vùng dân tộc phải chú ý cơ cấu người dân tộc thiểu số tham gia vào bộ máy quản lý nhà nước. Đồng thời người lãnh đạo phải là người có uy tín, nhiều kinh nghiệm trong công tác quản lý, thực hiện tốt công tác vận động đoàn kết nhân dân ở địa phương ủng hộ, làm theo chính quyền một cách hiệu quả nhất.
Bài học kinh nghiệm về nguồn và việc sử dụng cán bộ: Trong những năm gần đây, thực hiện chiến lược về công tác cán bộ 2016-2020 của các địa phương, kết hợp với thực hiện tiêu chí về hệ thống chính trị (Tiêu chí 18, trong tiêu chí Xây dựng Nông thôn mới). Trong đó quy định: cán bộ, công chức xã đạt chuẩn (Tiêu chí 18.1) trong quá trình xây dựng xã nông thôn mới, đã góp phần thúc đẩy nhanh việc chuẩn hóa trình độ lý luận chính trị, trình độ quản lý chuyên môn của đội ngũ cán bộ công chức xã. Tuy nhiên một đặc điểm về vấn đề này cần chú ý đó là nguồn cán bộ và cách sử dụng bố trí cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị nói chung và cán bộ giữ chức vụ Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch UBND cùng cấp nói riêng.
Về nguồn cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị cấp xã cần đáp ứng yêu cẩu đổi mới: đủ trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, tuổi đời,…Trong khi đó, yêu cầu của việc tinh gọn bộ máy, công tác thi tuyển công chức hằng năm của tỉnh, huyện khống chế về số lượng,…Điều này dẫn đến việc “lão hóa” dần số lượng cán bộ, công chức xã hiện có mà nguồn bổ sung lại rất hạn chế. Thực tế cho thấy để lựa chọn, bố trí một người giữa cương vị lãnh đạo cấp xã (Bí thư đồng thời là Chủ tịch UBND) là một việc không hề đơn giản, một bài toán khó đang đặt ra cho cấp ủy cấp trên, đặc biệt là Ban thường vụ huyện ủy các địa phương.
Về cách sử dụng cán bộ, công chức xã: Theo quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 61 Luật Cán bộ, Công chức năm 2008, thì cán bộ và công chức cấp xã có đặc điểm, vị trí, chức năng hoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế việc sử dụng, luân chuyển cán bộ, công chức trong những năm qua cho thấy nhiều người hôm nay là cán bộ thì ngày mai có thể là công chức và ngược lại.
Ví dụ: Một Trưởng phòng cấp huyện (là công chức) được điều động về làm Bí thư Đảng ủy xã (trở thành cán bộ) và ngược lại, một Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc ở xã (là cán bộ) được phân công làm công chức tư pháp hộ tịch xã (trở thành công chức.
Với cách sử dụng cán bộ, công chức như vậy không thể đảm bảo tính chuyên nghiệp, chưa quen công việc, chưa quen địa bàn, lãnh đạo có khi nặng về chuyên môn quản lý nhà nước (nếu là công chức chuyên môn cấp huyện được bổ nhiệm về làm cán bộ lãnh đạo xã) mà nhẹ về công tác lãnh đạo chính trị tư tưởng, công tác vận động quần chúng và có lúc thì ngược lại: nặng về công tác tư tưởng chính trị (nếu là cán bộ lãnh đạo xã được điều động làm công chức chuyên môn cấp huyện) mà nhẹ về nhà nước pháp quyền. Bên cạnh đó còn tâm lý bất an, không toàn tâm, toàn sức để làm tốt nhiệm vụ, vị trí mới được phân công của mình vì không biết bao giờ sẽ thay đổi tiếp.
4. Kiến nghị cơ chế kiểm soát quyền lực khi thực hiện mô hình này
Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch UBND cùng cấp là người có đầy đủ quyền lực ở địa phương, người này nắm cả quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước. Do vậy, cơ chế kiểm soát quyền lực cần được nghiên cứu từ góc độ cơ sở nền tảng, kết hợp những giải pháp cụ thể sát hợp với từng địa phương, vùng miền, phong tục tập quán, dân tộc, tôn giáo, vị trí địa chính trị của từng nơi khác nhau. Khi thực hiện mô hình này, từ chủ trương "thí điểm" (năm 2002) đến chủ trương: “Cơ bản thực hiện mô hình bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân các cấp; thực hiện bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã ở những nơi có đủ điều kiện.” (năm 2017). Mô hình này vẫn đang cần tiếp tục bổ sung hoàn thiện. Theo tôi để kiểm soát quyền lực cần thực hiện đồng thời các nội dung cơ bản sau:
4.1. Kiểm soát đầu vào của người sẽ được giao nắm giữ quyền lực, đó là làm thật tốt công tác cán bộ (Quy hoạch, đào tạo, phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực công tác thực tiễn). Xây dựng hệ thống thể chế về công tác tuyển dụng, quản lý, sử dụng cán bộ và công chức rõ ràng, tách bạch, không chồng chéo, có tính chuyên nghiệp cao, hạn chế đên mức thấp nhất điều động qua lại lẫn nhau giữa cán bộ và công chức.
4.2. Hoàn thiện Quy chế hoạt động của cấp ủy theo mô hình mới (bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch uỷ ban nhân dân cùng cấp) thống nhất cơ bản theo hướng dẫn của Trung ương, có vận dụng theo thực tế của địa phương (hướng dẫn của Tỉnh Ủy)
4.3. Từng bước hoàn thiện pháp luật về chính quyền địa phương (Sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Chính quyền địa phương theo hướng ghi nhận mô hình mới), làm rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bí thư đồng thời là Chủ tịch UBND cùng cấp.
4.4. Kiểm soát thực thi quyền lực
Sử dụng đồng bộ, hiệu quả các công cụ kiểm soát thực thi quyền lực: công cụ của Đảng, công cụ của Nhà nước, công cụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.
Công cụ của Đảng: Cương lĩnh, nghị quyết, điều lệ, quy chế, quy định,....
Công cụ của Nhà nước: Pháp quyền XHCN, cơ chế, chính sách, pháp luật, thanh tra, kiểm tra.
Công cụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân giữa vai trò quan trọng và mang lại hiệu quả thiết thực trong việc tham gia giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng chính quyền vững mạnh.
4.5. Xây dựng cơ chế xử lý vi phạm quyền lực
Đây là một vấn đề quan trọng, cần được thực hiện nghiêm từ Trung ương đến địa phương. Việc thực hiện xử lý đối với người nắm giữ quyền lực (Bí thư cấp ủy) sẽ có liên quan nhiều người, nhiều vấn đề,…
Trước tiên cần hoàn thiện chế định vi Hiến đã được nêu trong Văn kiện Nghị quyết Đại hội Đảng Khóa XII, các quy định pháp luật về phòng chống tham nhũng, quy định về người lãnh đạo (Bí thư cấp ủy) không phải là người địa phương./.
Tài liệu tham khảo
[1] Ban Tổ chức Trung ương-Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện 5 năm thí điểm mô hình “bí thư kiêm chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã” ở nước ta.
Vũ Quang Hưng - Khoa Nhà nước và Pháp luật