04:24 10/01/2022
Bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng viết và công bố vào thời gian rất ý nghĩa: đúng dịp kỷ niệm lần thứ 131 Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2021).
TS. Lê Quang Vinh
Trưởng Phòng Tổ chức, hành chính, thông tin, tư liệu
Mở đầu Bài viết, đồng chí Tổng Bí thư nêu lên tầm quan trọng của việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng thời giới hạn việc nghiên cứu vấn đề này từ góc nhìn thực tiễn của Việt Nam, và nhấn mạnh tập trung trả lời các câu hỏi: Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì?
Từ cách tiếp cận và đặt vấn đề như trên, nội dung Bài viết tập trung trả lời các câu hỏi thông qua việc lập luận, dẫn chứng thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu, thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ khi hình thành đường lối cơ bản, xuyên suốt, con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cho đến khi Đảng ra đời và lãnh đạo đấu tranh cách mạng ở Việt Nam.
Qua nghiên cứu Bài viết, niềm tin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở mỗi đảng viên được củng cố qua những điểm sau:
Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hình thành nhận thức tổng quát về xã hội xã hội chủ nghĩa: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới…”. Từ nhận thức này của Đảng ta, giúp cho mỗi đảng viên củng cố niềm tin trong nhận thức về xã hội mà chúng ta đang xây dựng, phát họa những nét cơ bản về xã hội đang hướng đến, xã hội tốt đẹp được Bác Hồ, Đảng ta và toàn thể nhân dân Việt Nam hằng mơ ước xây dựng, để từ đó chuẩn bị tâm thế và các điều kiện cần thiết phục vụ cho việc hoàn thành các mục tiêu đặt ra.
Hai là, thông qua chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng: “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới...”, từ đó giúp củng cố niềm tin trong nhận thức rằng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, không thể hoàn thành dễ dàng trong thời gian ngắn, phải trải qua sự đấu tranh gay go, quyết liệt, trong xã hội tất yếu còn tồn tại những hạn chế, khiếm khuyết nhất định không thể xóa bỏ ngay, thậm chí những hạn chế, khiếm khuyết này có thể đe dọa đến sự tồn vong của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Còn đó những hạn chế về kinh tế: chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế; môi trường bị ô nhiễm tại nhiều nơi; công tác quản lý, điều tiết thị trường còn nhiều bất cập. Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Những hạn chế về xã hội: khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch lại luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, qua nhận thức của Đảng ta, đồng thời qua lịch sử - logic quá trình phát triển xã hội loài người cho thấy trong bất cứ chế độ xã hội có giai cấp nào, ở bất kỳ quốc gia theo thể chế chính trị nào cũng đều phải trải qua thời kỳ quá độ với những thành tựu và hạn chế, mặt tốt và mặt xấu trong xã hội đen xen nhau, đấu tranh gay go quyết liệt, dĩ nhiên không loại trừ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhưng với sự ưu việt vượt trội của mình so với các chế độ kinh tế - xã hội trước đó, chủ nghĩa xã hội tất yếu sẽ thắng lợi, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội sẽ hiện thực hóa trong tương lai, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ được phát huy và đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần hoàn thành các mục tiêu chủ nghĩa xã hội đề ra, tất yếu đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Ba là, một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta là quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo nhận thức của Đảng ta, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ).
Đồng thời, Đảng ta khẳng định: Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự đột phá trong lý luận này giúp củng cố niềm tin về nguồn lực kinh tế phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, bởi vì điều này hoàn toàn phù hợp với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” với ý nghĩa chủ nghĩa xã hội muốn đạt được mục tiêu sau cùng “nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” thì trước hết phải đạt mục tiêu “dân giàu”, tức là đời sống nhân dân giàu có, xã hội phát triển tốt đẹp, thực lực tổng hợp quốc gia lớn mạnh. Giá trị “dân giàu” yêu cầu chúng ta lấy sự phát triển lực lượng sản xuất, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, đề cao mức sống bình quân của nhân dân trở thành mục tiêu chủ yếu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, và để đạt được điều này thì việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là điều rất cần thiết. Đảng ta sáng tạo trong lãnh đạo chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở giải quyết hai mặt của một vấn đề: một mặt phát triển kinh tế thị trường trên nền tảng kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mang tính tự do cạnh tranh, đề cao vai trò của bàn tay “vô hình”, đòi hỏi tôn trọng các quy luật khách quan của thị trường như quy luật giá trị, cạnh tranh, cung – cầu,… trong mặt này vừa thể hiện tính tích cực là khuyến khích thị trường và lực lượng sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động xã hội, sản phẩm hàng hóa dồi giàu mang lại sự phồn vinh về vật chất cho xã hội nhưng lại tồn tại song song đó là những khuyết tật: hàng gian, hàng giả kém chất lượng, trốn thuế, cạnh tranh gay gắt bằng nhiều thủ đoạn tinh vi để triệt hạ đối thủ, tình người có xu hướng trở nên “băng giá”,…; một mặt để hạn chế những khiếm khuyết đó nhằm giúp cho nền kinh tế phát triển đúng hướng thì có sự định hướng và phát huy vai trò bàn tay “hữu hình” của Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nên sự sáng tạo trong vận dụng này tạo ra niềm tin cho sự phát triển kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Bốn là, những thành tựu trên tất cả các mặt của đời sống xã hội qua 35 năm đổi mới được đề cập trong Bài viết: Mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỉ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Tỉ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều. Có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Có khoảng 70% dân số sử dụng Internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển… là minh chứng sát đáng cho sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chứng tỏ con đường chúng ta lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đạt được nhiều thành tựu rất đáng trân trọng. Chính vì vậy, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định, với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Năm là, cuối Bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu và cũng một lần nữa khẳng định rằng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin – học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống. Điều này giúp cho mỗi đảng viên thêm vững tin trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, không mập mờ, không dao động, có niềm tin về khả năng hiện thực của xã hội mà chúng ta đang hướng đến, để từ đó mỗi cán bộ, đảng viên củng cố thêm lập trường chính trị tư tưởng trên lập trường tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh – lý luận dẫn dắt, soi đường cho hoạt động thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Tóm lại, qua nghiên cứu bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng giúp cho mỗi đảng viên củng cố thêm lập trường chính trị tư tưởng trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; nhận thức được quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình khó khăn, phức tạp và có thể rất lâu dài, đòi hỏi phải có sự quyết tâm trong hành động nhưng tất yếu cái mới, cái tiến bộ sẽ tất thắng; nhận thức được sự sáng tạo của Đảng ta trong chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để từ đó củng cố thêm niềm tin về tiềm lực kinh tế phục vụ cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; nhận thức và củng cố thêm niềm tin ở mỗi đảng viên về những thành tựu to lớn trên tất cả các mặt của đời sống xã hội trong thời gian qua đất nước ta đạt được dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh – học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động nên niềm tin về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được củng cố và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tất yếu thành hiện thực./.
Tài liệu tham khảo
1. Văn phòng Ban Chấp hành Trung ương Đảng(2021), Công văn số 752-CV/VPTW, ngày 17/5/2021 v/v gửi Bài viết cảu đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và Phát biểu tại Hội nghị tổng kết công tác của Hội đồng Lý luận Trung ương nhiệm kỳ 2016-2021.
2. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực của đời sống xã hội, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội 2014.