Trường Chính trị Tôn Đức Thắng Tỉnh An Giang

Bác Tôn – Một người bình thường nhưng vĩ đại

09:36 21/08/2018

Miền quê Mỹ Hòa Hưng hiền hòa ven bờ sông Hậu đón tiếng khóc chào đời của người con ưu tú Tôn Đức Thắng vào ngày 20 tháng 8 năm 1888. Sinh trưởng trong một gia đình nông dân khá giả, sau khi tốt nghiệp bậc học cơ sở ở Long Xuyên, năm 1906, chàng thanh niên Tôn Đức Thắng đến với thành phố Sài Gòn để học việc và trở thành người thợ máy. Ở đây, Người đã sớm tham gia và hoà nhập cuộc sống của những người thuộc lớp cần lao.

Năm 1912, Tôn Đức Thắng tham gia lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân xưởng Ba Son và vận động học sinh trường Bách Nghệ Sài Gòn bãi khoá. Những cuộc đấu tranh đầu tiên đó của giai cấp công nhân đã giành được thắng lợi và biểu lộ sức mạnh của lực lượng xã hội mới, làm cho bọn thống trị phải lo lắng và hoảng sợ. Để tránh sự truy nã của bọn chúng, Tôn Đức Thắng sang làm thợ máy tại một quân cảng ở miền Nam nước Pháp và trở thành “người công nhân Việt Nam đầu tiên hoạt động trong phong trào công nhân Pháp và xây dựng mối tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt – Pháp”[1]. Tháng 4/1919, người thợ máy Tôn Đức Thắng đã cùng với anh em binh lính Pháp kéo lá cờ đỏ phản đối chiến tranh lên trên chiến hạm Phrăng-xơ trước cửa thành Xê-vat-tô-pôn. Bằng hành động đó, Tôn Đức Thắng là một trong những người Việt Nam đầu tiên tham gia đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng tháng Mười và xây đắp tình hữu nghị Việt – Xô. Sau này, qua lãnh đạo công nhân Ba Son bãi công, kéo dài thời gian sữa chữa đô đốc hạm Mitchelet đang trên đường sang đàn áp cách mạng Trung Quốc, Bác Tôn lại một lần nữa trở thành lớp người đầu tiên xây đắp tình đoàn kết Việt – Trung. 

Năm 1920, đồng chí Tôn Đức Thắng trở về Tổ quốc và Người tiếp tục cuộc đời làm thợ và lao ngay vào những hoạt động yêu nước và cách mạng.

Trong những năm 1920 – 1921, cùng với một số người cùng chí hướng, đồng chí Tôn Đức Thắng đã sáng lập và là Hội trưởng tổ chức Công hội bí mật đầu tiên ở Sài Gòn – Chợ Lớn. Đây được xem là tổ chức tiên tiến nhất trong lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam cho đến thời điểm này, chuẩn bị tiền đề để đưa giai cấp công nhân Việt Nam từng bước lên vũ đài chính trị. Từ năm 1925, Công hội bí mật là cơ sở cho sự phát triển của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Sài Gòn và Nam Bộ, giữ vai trò quan trọng giúp cho giai cấp công nhân Việt Nam tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin. Do đó, cùng với lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng chí Tôn Đức Thắng là lớp người đầu tiên tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênnin vào giai cấp công nhân Việt Nam và tham gia hoạt động tích cực trong quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Gần 17 năm bị tù đài, trong đó có 15 năm bị tù đài ở "địa ngục" Côn Đảo là thử thách lớn trong cuộc đời người chiến sĩ cách mạng Tôn Đức Thắng. Trong những tháng năm thử thách khốc liệt, Tôn Đức Thắng luôn tỏ rõ là một người cách mạng chân chính, có nghị lực phi thường, trung thành vô hạn với Đảng, với cách mạng. Bản lĩnh và hành động của Người làm kẻ thù phải e dè, kính nể, đồng chí, bạn bè càng quý trọng, kính phục. Tôn Đức Thắng chiến thắng kẻ thù ngay trong lòng nó.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Tôn Đức Thắng và các chiến sĩ cách mạng được đón về đất liền và tiếp tục công cuộc kháng chiến kiến quốc, chống thực dân Pháp đến ngày toàn thắng. Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, giành độc lập - tự do - thống nhất Tổ quốc, Người đã giành những tình cảm sâu nặng nhất cho cuộc chiến đấu cực kỳ gian khổ của đồng bào miền Nam, ra sức cùng với toàn Đảng, Nhà nước tăng cường lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc - hậu phương lớn của công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, để làm tròn nghĩa vụ đối với miền Nam tiền tuyến lớn anh hùng.

Là Đại biểu Quốc hội từ khóa I (1946) đến khóa V (1980), liên tục là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ năm 1951 đến 1980, đồng chí Tôn Đức Thắng đã được Đảng và Nhà nước ta đề cử giữ nhiều trọng trách: Phó Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (1946 – 1951), Bộ trưởng Bộ Nội vụ (1947), Thanh tra đặc biệt toàn quốc (1947 – 1949), Trưởng Ban Dân vận – Mặt trận Trung ương, Trưởng Ban Thường trực Quốc hội (1955 - 1960), Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Mặt trận Liên Việt (1951-1955), Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955 – 1977), Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt – Xô, Chủ tịch danh dự Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Hòa bình thế giới,  Phó Chủ tịch nước (1960 - 1969) và đồng chí vinh dự được bầu làm Chủ tịch nước (1969 – 1980) – kế nhiệm Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Trong những cương vị trọng trách của mình, cùng với Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, đồng chí Tôn Đức Thắng đã có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đồng chí Tôn Đức Thắng là người đầu tiên được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Sao Vàng – Huân chương cao quý nhất của nước ta – do đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng.

Tháng 12/1955, đồng chí Tôn Đức Thắng là người Việt Nam đầu tiên vinh dự được Ủy Ban giải thưởng Hòa bình Quốc tế Lênin của Liên Xô trao tặng giải thưởng Lênin vì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc.

Tháng 11/1967, do những cống hiến lớn lao với sự nghiệp hòa bình thế giới. Đoàn Chủ tịch Xô Viết tối cao Liên Xô quyết định tặng đồng chí Tôn Đức Thắng huân chương Lênin – huân chương cao quý nhất của Nhà nước Liên Xô. Vinh dự đặc biệt đó không chỉ dành cho đồng chí Tôn Đức Thắng, mà còn là vinh dự chung cho cả nhân dân Việt Nam ta.

Lẽ tất nhiên chẳng phải ai muốn cũng trở thành vĩ nhân. Chỉ có những người gian truân trong khổ luyện, nhiệt thành trong cống hiến, dạt dào tình yêu thương mới có thể hòa nhập vào quần chúng nhân dân mà tỏa sáng. Bác Tôn của chúng ta là người như thế. Cả cuộc đời Bác, từ lúc là “cậu ấm” trong một gia đình khá giả đến khi trường kỳ nếm trải gian khổ của cuộc đời cách mạng, cả lúc trở thành người đứng đầu Nhà nước ta, xuyên suốt là một quá trình nỗ lực tự rèn luyện đức và tài.

Đó là cuộc đời của một học trò sau khi mãn khóa không chọn con đường làm thầy thông, thầy ký cốt sao “béo tấm thân, phì gia đình, lợi dòng tộc” mà chọn con đường làm thợ, mà lại là thợ rất giỏi tay nghề, để rồi trở thành người sáng lập công hội đỏ-tổ chức cách mạng tiên phong của công nhân Việt Nam. Sự lựa chọn bắt nhịp đúng với xu thế thời đại của anh thanh niên Hai Thắng cho chúng ta thấy rằng thanh niên cần phải có một cái đầu “tỉnh” và lá gan “dũng cảm” để biết loại bỏ những cám dỗ lợi ích vật chất trước mắt, chọn đúng đường đi cho mình-con đường mà đích đến sẽ là lòng tri ân và tôn kính của người đời vì những đóng góp cho xã hội.

Đó là cuộc đời của một nhà hoạt động cách mạng không hề hà khó khăn, ngại khổ cực. Một người mà đến khi đứng đầu Nhà nước ta vẫn giản dị trong chiếc áo vá nối miễn sao nhân dân no ấm. Một người chứa trong mình ngọn lửa kiên trung sắt đá và cao ngất dũng khí của hào kiệt Lạc Việt ngàn đời, tỏa sáng ngay trong nơi tối tăm nhất - nhà tù thực dân.

Đó là một con người suốt đời rèn luyện đạo đức cách mạng, suốt đời cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Mặc dù là người đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch Tôn Đức Thắng lúc nào cũng giữ được phong cách công nhân trong sáng của mình: khiêm tốn, giản dị, chân thành, luôn hòa mình trong quần chúng. Người luôn đi sâu đi sát cơ sở, lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân và kiểm tra hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước. Mặc khác, không những bản thân gương mẫu thực hiện, mà Người còn luôn luôn căn dặn, nhắc nhở, giáo dục cán bộ lãnh đạo các cấp chính quyền từ Trung ương đến cơ sở phải hết lòng vì dân, vì nước và luôn phải coi nhân dân là gốc của cách mạng. Bác Tôn - một người mà đạo đức đã phục được nhân tâm của quảng đại nhân dân Việt Nam, trở thành người tiêu biểu cho chính sách đại đoàn kết của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bác Tôn luôn là con người của hành động, từ những hành động mang tính tự phát được kích thích bởi tấm lòng yêu nước, ủng hộ lẽ phải đến những đấu tranh không mệt mỏi cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam, rộng hơn là cách mạng thế giới. Đó là một người bình thường nhưng vĩ đại!

Bác Tôn sống mãi trong lòng người dân quê nhà nói riêng, nhân dân cả nước nói chung. Nhắc đến Người, thế hệ con cháu ơn sâu khắc kỹ, noi tấm gương sáng. Khu lưu niệm trong lòng lớp lớp cháu con trường tồn cùng dòng sông Hậu hiền hòa quê Người.

 

[1] Tỉnh ủy An Giang - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Tôn Đức Thắng với cách mạng Việt Nam và quê hương An Giang, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004, tr. 186.

Nguyễn Phương An

Responsive image
 

 

các tin khác