Trường Chính trị Tôn Đức Thắng Tỉnh An Giang

Tính tất yếu của việc nâng cao chất lượng quản lý Nhà nước đối với tôn giáo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

12:02 25/11/2020

Việt Nam là một quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo đang tồn tại. Chưa kể rất nhiều người vẫn giữ tín ngưỡng dân gian truyền thống, ngoài 6 tôn giáo lớn, ở nước ta có gần 1/3 dân số cả nước sinh hoạt tôn giáo thường xuyên. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta xác định phải tăng cường công tác tôn giáo để vừa đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa đấu tranh chống xuyên tạc hoặc lợi dụng tôn giáo để đi ngược lại lợi ích của dân tộc.

Trong vấn đề tôn giáo và công tác quản lý tôn giáo, chúng ta cần nhận thức rằng tôn giáo cũng như đối với mọi lĩnh vực xã hội khác. Do đó, việc quản lý của nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức tôn giáo là điều đương nhiên của mọi chế độ xã hội. Tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức mà còn là một thực thể xã hội có hệ thống tổ chức chặt chẽ. Tôn giáo tồn tại và phát triển không ngoài xã hội mà nó quan hệ và tác động đến xã hội gián tiếp và trực tiếp ở nhiều lĩnh vực của cuộc sống.

Nội dung quan trọng của quản lý nhà nước đối với tôn giáo là đảm bảo được sự tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho công dân và đưa mọi hoạt động của các tôn giáo vào trong khuôn khổ pháp luật. Hiện nay, hoạt động của tôn giáo không chỉ dừng lại ở tính chất nội bộ mà nó còn có sức lan tỏa lớn hơn rất nhiều, ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Chính vì vậy, bất cứ quốc gia nào, nhà nước nào, ở đâu có hoạt động tôn giáo thì ở đó đều có sự can thiệp, điều chỉnh của nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp và dân tộc. Nếu sự quản lý nhà nước đối với tôn giáo không tốt sẽ có thể dẫn đến những bất ổn.

Thực tế ở các quốc gia đều có một cơ quan chuyên trách giúp Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo. Việc nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo trong thời kỳ đổi mới hiện nay ở nước ta lại được đặt ra và quan tâm một cách cấp thiết bởi vấn đề này xuất phát từ nhiều yêu cầu khách quan:

Thứ nhất, tính tất yếu của yêu cầu nâng cao chất lượng quản lý nhà nước đối với tôn giáo trong thời kỳ đổi mới ở nước ta xuất phát từ mối quan hệ giữa hoạt động của các tôn giáo với đời sống của xã hội Việt Nam hiện nay. Việt Nam là một nước có nhiều tôn giáo, có nhiều người hoạt động chuyên nghiệp, có nhiều chức sắc có trình độ cao, nhiều cơ sở thờ tự của các tôn giáo.

Năm 2005, ở nước ta “có 16 tổ chức tôn giáo của 6 tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân, có 60.286 chức sắc, chức việc. Tổng số tín đồ của 6 tôn giáo này là 22.027.006 người. Đến năm 2010, “cả nước đã có 13 tôn giáo, 37 tổ chức tôn giáo với gần 24 triệu tín đồ (chiếm khoảng 27% dân số cả nước), 83.00 chức sắc, 250.000 chức việc, 26 cơ sở đào tạo chức sắc tôn giáo, 25.000 cơ sở thờ tự”. Hiện nay, “cả nước có khoảng 25 triệu người theo các tôn giáo khác nhau, có 41 tổ chứa tôn giáo (thuộc 14 tôn giáo) được Nhà nước công nhận tổ chức hoặc cho đăng ký hoạt động”. Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo nói trên, người ta thường ví Việt Nam như bảo tàng tôn giáo thế giới. Về khía cạnh văn hóa, sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo góp phần cho nền văn hóa Việt Nam phong phú hơn. Tuy nhiên, điều này đặt ra hàng loạt vấn đề quản lý nhà nước về phong chức, phong phẩm, công nhận và hướng dẫn các tổ chức, hệ phái tôn giáo hoạt động đúng pháp luật, giải quyết vấn đề đất đai, cơ sở thờ tự; quan hệ đối ngoại về tôn giáo...

Hoạt động của các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay lại diễn ra khá đa dạng. Xu hướng các tôn giáo hiện nay đang gia tăng về số lượng cũng như lĩnh vực hoạt động. Các tôn giáo không còn trong phạm vi các chùa, nhà thờ, thánh thất như trước nữa mà đã trở nên “nhộn nhịp” không chỉ ở đời sống tôn giáo thể hiện trong giáo lý, tổ chức, xây dựng cơ sở thờ tự..., mà còn tham gia vào các vấn đề của xã hội: cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Và tất nhiên, mọi hoạt động đó thường có hai mặt: cả tích cực và hạn chế. Đó là những hoạt động nhân đạo từ thiện chỉ vì từ thiện và lợi dụng hoạt động nhân đạo từ thiện để truyền đạo sai trái; việc rao giảng đức tin với những giá trị đạo đức và cả những hạn chế về thế giới quan trong giáo lý các tôn giáo; những vấn đề thuộc về văn hóa tôn giáo và cả những nội dung, những hoạt động phản văn hóa; những hoạt động “tốt đời đẹp đạo”, đồng hành cùng dân tộc, vì một mục tiêu chung dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và cả những hoạt động vì mục đích chính trị phản động chống phá Nhà nước; những hoạt động lành mạnh, đúng pháp luật và cả những hoạt động trái pháp luật của các tổ chức tôn giáo.

Ngoài ra, một vấn đề rất đáng lo ngại là sự xuất hiện những giáo phái mới hay còn gọi là “đạo lạ”. Năm 1998, nước ta có khoảng 30 loại tôn giáo mới, hiện nay đã là 70 hiện tượng tôn giáo mới lôi kéo hàng vạn người tin theo mà phần lớn trong số này lại “lành ít, dữ nhiều”. Điều đáng quan tâm, sự ra đời của các hiện tượng tôn giáo mới này không chỉ ảnh hưởng đến đời sống tôn giáo mà tác động đến đời sống xã hội. Những hiện tượng tôn giáo mới hiện nay ở Việt Nam một mặt xuất hiện từ bên trong mang tính chất nội sinh; mặt khác được du nhập từ bên ngoài và quan tâm nhiều đến tính cộng đồng, làm sao để được nhiều người biết đến ủng hộ do đó còn mang tính “lộn xộn” ngay cả tên gọi, giáo lý và nghi lễ. Bên cạnh đó, một số hiện tượng tôn giáo mới thể hiện sự cuồng tín đến phi nhân tính, phản văn hóa như khuyến khích tình dục, bạo lực, tự sát, loạn luân... Sự xuất hiện và truyền bá của những tôn giáo, giáo phái như vậy sẽ gây nên những hậu quả khôn lường cho xã hội. Chính bởi thực tế này mà việc quản lý nhà nước đối với tôn giáo - hơn bao giờ hết phải được đặt ra và xem xét một cách khoa học, nghiêm túc và đầy tính linh hoạt chủ động, nhằm có thể ngăn chặn mọi nguy cơ, hiểm họa rất có khả năng xảy ra trong thời gian tới ở nước ta.

Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước đã có sự đổi mới về quan điểm và chính sách đối với hoạt động của các tôn giáo, nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều vấn đề đang cần giải quyết như về trình tự, thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước; về hoàn chỉnh hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động tôn giáo do thực tiễn hơn 12 năm thực hiện Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo đặt ra.

Thứ hai, tác động của những diễn biến phức tạp do quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đưa lại.

Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang tác động mạnh đến các tôn giáo tại Việt Nam. Việc hội nhập kinh tế quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa đang đưa đến cho Việt Nam rất nhiều những cơ hội và thách thức. Ở đó, có một số vấn đề liên quan trực tiếp đến quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo.

Toàn cầu hóa đã và đang làm cho đời sống tôn giáo nói riêng và đời sống xã hội nói chung ngày càng trở nên phong phú, bề bộn. Khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin khiến cho sự truyền bá, phổ biến các giáo lý, đức tin tôn giáo ngày càng trở nên đa chiều và rộng khắp. Đây là điều kiện để các tôn giáo có giáo hội chung - trong toàn quốc, khu vực như Phật giáo, trên cả thế giới như Công giáo... nhanh chóng truyền tải thông tin, “chỉ thị” đến các tín đồ; thắt chặt mối quan hệ giữa giáo hội trung ương với giáo hội cơ sở. Điều này vô hình trung tạo nên không ít khó khăn đối với chính quyền bởi sự can dự sâu của các tổ chức tôn giáo đối với tín đồ của mình, nếu nhà nước không tăng cường công tác quản lý tốt thì mối quan hệ giữa nhà nước với công dân - tín đồ sẽ dẫn đến hệ lụy không đáng có trong hoạt động của mình.

Không những vậy, với sự bùng nổ thông tin, một tín đồ có rất nhiều điều kiện để tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin, giáo lý, giáo luật... của các tôn giáo để từ đó chọn lựa và quyết định tham gia hoặc không tham gia vào một tôn giáo nào đó. Điều này dự báo sẽ dẫn đến một xu hướng ngày càng nở rộ các tôn giáo, giáo phái xâm thực vào Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng ta không thể không tính đến “độ nhiễu” của các nguồn thông tin từ internet, các đài, báo... nước ngoài xuất phát từ mục đích riêng, đặc biệt từ sự lợi dụng tôn giáo vào mục đích chính trị, khiến cho nguồn thông tin khi đến với các tín đồ đã bị sai khác rất nhiều và dẫn đến lệch lạc trong nhận thức và hành động. Điều này nói lên vai trò không thể thiếu của quản lý nhà nước về lĩnh vực tôn giáo nói riêng và nhiều lĩnh vực khác nói chung trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay.

Thứ ba, xuất phát từ vấn đề quan hệ quốc tế của các tôn giáo ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Các tôn giáo ở Việt Nam có mối quan hệ quốc tế rộng rãi và ít nhiều có những tác động qua lại thông qua những mối liên hệ đó, trong xu thế toàn cầu, hội nhập và phát triển. Mối quan hệ giữa Giáo hội Công giáo Việt Nam với Giáo triều Vantican; giữa các hệ phái Tin lành Việt Nam với các hệ phái tinh lành gốc, trong khi hầu hết các tổ chức, hệ phái Tin lành ở Việt Nam hiện nay đều có nguồn gốc từ các tổ chức, hệ phái Tin lành ở Mỹ; Hồi giáo Việt Nam có mối quan hệ rất khắng khít với Hồi giáo Ma-Lai-xi-a, là cội nguồn du nhập và hỗ trợ Hồi giáo Việt Nam… Các tôn giáo ở Việt Nam còn chịu tác động của các cá nhân, tổ chức tôn giáo của người Việt Nam ở nước ngoài qua con đường Việt kiều, hồi hương, thăm thân…

Vấn đề quan hệ quốc tế của các tôn giáo đang là vấn đề rất lớn và rất quan trọng trong chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, cũng như trong quản lý nhà nước về tôn giáo. Vấn đề quan hệ quốc tế tôn giáo cần được xem xét giải quyết thỏa đáng trong điều kiện chính sách đối ngoại rộng mở của Đảng và Nhà nước ta trong xu thế xu thế toàn cầu và quốc tế hóa các vấn đề kinh tế - văn hóa - xã hội.

Thứ tư, xuất phát từ sự xuất hiện và tồn tại lâu dài của tôn giáo trong xã hội. 

Đảng ta đã có sự nhận thức rất sớm, đúng đắn và kịp thời về sự tồn tại lâu dài của tôn giáo trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và cả trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, khi cuộc sống vật chất của nhân loại được phát triển cao, khi khoa học kỹ thuật có những bước nhảy vĩ đại, thì trên thế giới và trong vũ trụ vẫn còn nhiều điều bí ẩn mà chúng ta không dễ gì khám phá, lý giải được một cách thấu đáo, tức nó vẫn là chỗ dựa cho các lực lượng siêu nhiên trú ẩn, tôn giáo vẫn có lý do để tồn tại. Đặc biệt, trong thời kỳ quá độ hiện nay ở nước ta thì sự bất bình đẳng đâu đó vẫn còn tồn tại, những mảng tối - sáng, tốt - xấu vẫn còn tồn tại đan xen, những được - mất, hơn - thua, may - rủi vẫn hiện diện thì điều đó càng làm cho con người hướng đến yếu tố số phận với vai trò chi phối của các thần linh. Tôn giáo hiện nay vẫn thực hiện chức năng “đền bù hư ảo” của mình, làm dịu bớt những mất mát, khó khăn trong cuộc sống thực tại. Tôn giáo vẫn còn tồn tại lâu dài trong xã hội loài người nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Vì vậy, chúng ta cần có một cách nhìn nhận đúng đắn, khoa học và cần phải hoạch định những cách thức quản lý Nhà nước cả trước mắt lẫn lâu dài để tạo nên sự đồng thuận cao nhất cho tôn giáo có thể đồng hành cùng dân tộc.

Thứ năm, xuất phát từ những giá trị đạo đức trong các tôn giáo, tín ngưỡng.

Trong tiến trình nhận thức của thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã nhìn nhận và có những đánh giá mang tính khách quan đối với tôn giáo. Việc nhìn nhận, đánh giá những giá trị tích cực về văn hóa, đạo đức của tôn giáo đối với xã hội. Điều này lại càng có ý nghĩa đối với xã hội ta hiện nay, khi nhiều vấn đề thuộc về mặt trái của nền kinh tế thị trường vẫn còn tồn tại, lẩn khuất trong xã hội. Xuất phát từ những giá trị đạo đức của các tôn giáo, tín ngưỡng, chúng ta cần tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo, nhằm thúc đẩy, khuyến khích những ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện trong các tôn giáo để các tôn giáo có những đóng góp thiết thực cho xã hội, cùng chung sức xây dựng một xã hội tốt đẹp, văn minh. Đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, xét ở phương diện này có một ý nghĩa vô cùng tích cực, đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý nhà nước đối với các hoạt động của tôn giáo theo hướng thể chế hóa đầy đủ hơn những yếu tố tương đồng giữa lý tưởng tôn giáo với mục tiêu đổi mới ở nước ta hiện nay.

Thứ sáu, xuất phát từ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng nước ta.

Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng các tôn giáo, tín ngưỡng để chống lại sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Ngày nay, các thế lực thù địch đang tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình”, lấy dân tộc, tôn giáo làm ngòi nổ để chống cách mạng Việt Nam, chúng dùng đủ mọi thủ đoạn để lôi kéo quần chúng tín đồ tôn giáo, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ trong tín đồ từng tôn giáo và giữa các tôn giáo…

Với chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước về tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh chống mọi âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống lại dân tộc, chống lại cách mạng thì việc quản lý nhà nước đối với tôn giáo là tất yếu khách quan. Có như vậy, chúng ta mới có thể ổn định được đất nước, thực hiện tốt các mục tiêu đặt ra trong giai đoạn hiện nay để một mặt thể hiện sự hội nhập cùng tiến trình chung của quốc tế mặt khác thể hiện tính độc lập, tự chủ của chúng ta.

Thứ bảy, thực tiễn công tác quản lý nhà nước về tôn giáo trong những năm qua.

Trong những năm qua công tác quản lý nhà nước về tôn giáo đạt được những kết quả quan trọng, tạo bước chuyển biến căn bản. Tuy nhiên, vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu chính đáng của một số cá nhân, tổ chức tôn giáo.

Việc nắm tình hình tôn giáo nói chung, các “đạo lạ” nói riêng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số chưa chắc, thậm chí có lúc có nơi còn chủ quan, mất cảnh giác trước âm mưu chống phá của các thế lực thù địch. Mặt khác, ở một số địa phương buông lỏng quản lý, nhiều nơi không nắm được nội dung, phương pháp, trách nhiệm quản lý, dẫn đến việc chỉ đạo chung chung hoặc không tiếp tục theo dõi, quản lý. Ở nhiều nơi, các cấp chính quyền địa phương do chưa nắm chắc pháp luật về tôn giáo nên còn e ngại, không đấu tranh kiên quyết với các hành vi sai trái trong hoạt động tôn giáo như truyền đạo trái pháp luật, tuyên truyền mê tín dị đoan. Nhất là vấn đề xử lý những sai phạm về xây dựng cơ sở thờ tự vẫn còn nhiều bất cập. “Một số nơi còn buông lỏng, chưa kịp thời hướng dẫn cho tổ chức, cá nhân tôn giáo thực hiện đúng pháp luật và còn thiếu một chiến lược lâu dài, đồng bộ”.

Vì vậy, xuất phát từ thực tiễn hoạt động và công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở nước ta hiện nay, Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã đề ra phương hướng: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận theo quy định của pháp luật. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật”.

Tóm lại, tôn giáo tồn tại, phát triển không ngoài xã hội, nó không chỉ là một hình thái ý thức mà còn là một thực thể xã hội có hệ thống tổ chức chặt chẽ, quan hệ và tác động đến mọi lĩnh vực xã hội, việc quản lý của nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức tôn giáo là điều đương nhiên của mọi chế độ, dưới mọi thời đại. Việc nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về tôn giáo giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết, nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân và đảm bảo cho các hoạt động tôn giáo được diễn ra bình thường theo quy định của pháp luật; phát huy những mặt tích cực, khắc phục những hạn chế, tiêu cực của các tôn giáo đối với sự phát triển của xã hội; đấu tranh ngăn chặn các hành vi lợi dụng tôn giáo làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước, vi phạm quyền tự do tôn giáo của công dân; thực hiện đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau và đồng bào không theo tôn giáo vì một mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Tài liệu tham khảo

1. Ban Tôn giáo Chính phủ (2006), Số liệu từ phụ lục trong sách trắng Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, tr.80 - 84.

2. Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2009), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác tôn giáo, Hà Nội.

3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2016), Tài liệu nghiệp vụ công tác Dân vận (Dành cho lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Dân vận), Hà Nội.

4. Ngô Hữu Thảo (2012), Công tác tôn giáo từ quan điểm Mác - Lênin đến thực tiễn Việt Nam, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr. 137.

5. Học viện Chính trị khu vực III (2010), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu khoa học đề tài cấp bộ Quản lý nhà nước về tôn giáo ở các tỉnh Tây Nguyên, Đà Nẵng, tr. 20.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 165.

ThS. Dương Thị Bích Thủy - Giảng viên Khoa Xây dựng Đảng

các tin khác