08:04 14/05/2020
Về xây dựng đảng cộng sản, Mác-Ăngghen chưa sử dụng cụm từ đảng cộng sản cầm quyền và thực tế lúc bấy giờ chưa có đảng cộng sản cầm quyền; sau Cách mạng Tháng Mười Nga, Đảng Bônsêvích trở thành Đảng Công sản cầm quyền đầu tiên trên thế giới và như vậy cũng là lần đầu tiên Lênin sử dụng cụm từ “Đảng cộng sản cầm quyền”.
Ở Việt Nam, sau cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhà nước công nông ra đời, Đảng Cộng sản Việt nam trở thành Đảng cầm quyền. Tuy nhiên, đến năm 1965 khi Bác Hồ bắt đầu viết Di chúc, Bác chính thức sử dụng cụm từ đảng cầm quyền Đảng ta là một Đảng cầm quyền” (1). Trong di sản vô giá mà Người để lại, chúng ta có thể hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền như sau:
Trước hết, đảng cộng sản cầm quyền là đảng nắm toàn bộ quyền lực chính trị và chi phối toàn bộ quyền lực chính trị ở một quốc gia; trong một thể chế chính trị chỉ có một đảng cầm quyền, do đó trong Di chúc Người đã viết: Đảng ta là “một Đảng” cầm quyền. Như vậy, cơ chế đa đảng ở nhiều nước trên thế giới hiện nay cũng chỉ có một đảng cầm quyền nếu đảng đó chiếm đa số ghế trong quốc hội, hoặc nghị viện và đủ điều kiện thành lập chính phủ; nếu chiếm đa số ghế, nhưng không đủ điều kiện thành lập chính phủ thì các đảng phải liên minh với nhau để nắm chính quyền và chi phối toàn bộ hoạt động của chính quyền nước đó nên gọi là “liên minh cầm quyền”. Với cơ chế Đảng duy nhất cầm quyền và với vai trò Đảng cộng sản là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng xây dựng và chỉnh đốn Đảng “Việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”(2).
Thứ hai, Đảng Cộng sản cầm quyền phải chú trọng xây dựng sự đoàn kết thống nhất của Đảng. Trở thành đảng cầm quyền sự đoàn kết thống nhất của đảng càng đặc biệt quan trọng, nhất là ở những nước mà giai cấp công nhân chiếm tỷ lệ nhỏ bé trong dân cử. Chỉ khi Đảng Cộng sản đoàn kết thống nhất mới đoàn kết được giai cấp, đoàn kết nhân dân, đoàn kết dân tộc; Đảng Cộng sản cầm quyền mất đoàn kết không chỉ phá vở sức mạnh của Đảng mà còn phá vở sức mạnh của cả hệ thống chính trị, phá vở khối đại đoàn kế toàn dân. Vì vậy, trong Di chúc, Bác căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(3)
Thứ ba, trở thành Đảng Cộng sản cầm quyền “…lợi ích của giai cấp công nhân với lợi ích của nhân dân lao động, lợi ích của dân tộc là thống nhất cho nên Đảng là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động cũng tức là Đảng của dân tộc Việt Nam (4). Người còn nhấn mạnh “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiện vị” (5). Khi trở thành Đảng Cộng sản cầm quyền, Đảng ta phải chịu trách nhiệm trước giai cấp và dân tộc Việt Nam, trước vận mệnh của đất nước; mọi thành công hay thất bại của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với trọng trách của Đảng, bởi Đảng Cộng sản Việt Nam Người lãnh đạo, tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; vì vậy, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”(6)
Thứ tư, Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, trong thực chất là Nhân dân nắm quyền, Hồ chí Minh chỉ rõ:
“ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra
Đoàn thể (Đảng Cộng sản Việt Nam) từ Trung ương đến xã do nhân dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” (7).
Đảng được nhân dân tín nhiệm giao trọng trách lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thứ năm, Đảng Cộng sản cầm quyền phải tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện đảng viên. Hồ Chí Minh thấy rõ nguy cơ biến chất, tha hoá của đội ngũ đảng viên, bởi trở thành Đảng Cộng sản cầm quyền, đội gũ cán bộ được bố trí những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước đó là rất cần thiết và rất quan trọng để nâng cao năng lực cầm quyền, nhưng khi có chức, có quyền dễ lạm dụng để làm điều sai trái, xa rời nhân dân, làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Do đó, Người luôn nhắc nhở đảng viên phải tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, không được chủ quan tự mãn khi đã nắm quyền trong tay, không được biến thành những “ông quan cách mạng” nên trong di chúc Người đã căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư” (8).
Thứ sáu, Đảng Cộng sản cầm quyền “phải xứng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” (9). Lãnh đạo là vạch đường, chỉ lối, tổ chức thực hiện tốt chủ trương, đường lối; đầy tớ là phục vụ hết mình, tận tâm, tận lực, không ngạy khó khăn, gian khổ. “Lãnh đạo” và “đầy tớ” tuy hai, nhưng chỉ là một, được hoà quyện vào nhau; trong lãnh đạo ắc có phục vụ “đầy tớ”; ngược lại “đầy tớ” phải giữ vững trọng trách lãnh đạo, nghĩa là lãnh đạo để phục vụ nhân dân, để phục vụ nhân dân phải lãnh đạo; lãnh đạo tốt tức phục vụ nhân dân tốt, phục vụ nhân dân tốt tức lãnh đạo tốt. Nếu tuyệt đối hoá lãnh đạo dễ dẫn đến chuyên quyền độc đoán, xa rời nân dân; nếu tuyệt đối hoá “đầy tớ” sẽ dẫn đến theo đuôi quần chúng, chệch hướng trong lãnh đạo. Vì vậy, “lãnh đạo” và “đầy tớ” hoà quyện vào nhau hợp thành bản chất cách mạng và khoa học của một Đảng Cộng sản cầm quyền.
Thứ bảy, Đảng Cộng sản cầm quyền phải tăng cường công tác dân vận. Theo Hồ Chí Minh, tư tưởng của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân phải được “Quán triệt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng cấu trúc thượng tầng của chế độ và thể chế của nhà nước ta”(10). Người khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(11). Do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền phải tăng cường và thực hiện tốt công tác dân vận để “vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho” (12), bởi “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công” (13)
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Để nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay cần vận dung thực hiện một số nội dung theo tư tưởng của Người dưới đây:
Môt, tăng cương bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù đich; chống mọi biểu hiện đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; kiên quyết, kiên trì đấu tranh khắc phục những yếu kém trong tổ chức đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, “lợi ích nhóm”, bè phái, cơ hội chính trị, chạy chức, chạy quyền, quan liêu, xa dân... trong cán bộ, đảng viên, làm cho Đảng ta thật sự liêm khiết, thật sự là Đảng của giai cấp, của dân tộc, được nhân dân tin yêu và ủng hộ.
Hai, xây dựng và giữ gìn đoàn kết thống nhất của Đảng từ Trung ương đến cơ sở. Trong đó, xây dựng chủ trương, nghị quyết đúng đắn, tạo sự thống nhất ý chí và hành động, nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, coi tự phê bình và phê bình là nguyên tắc để phát triển Đảng, qua đó củng cố và tăng cường kỷ luật của Đảng, phát huy dân chủ và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Ba, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, tạo cơ sở xã hội vững chắc cho sự cầm quyền của Đảng, quyết định sự hưng vong của Đảng. Vì vậy, Đảng phải dựa vào nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm trọng để xây dựng đường lối, chính sách, huy động nhân dân tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước trong sạch, vững mạnh bảo đảm sự cầm quyền của Đảng bền vững. Chính yêu cầu này đòi hỏi Đảng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận, phát huy vai trò của cả hệ thống trị từ Trung ương đến cơ sở đối với công tác dân vận.
Bốn, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sách, vững mạnh, thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, tận tâm, tận lực phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Chú trong xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu các cấp, các cơ quan, các đoàn thể có đủ phẩm chất đạo đức và năng lực công tác; luôn thống nhất giữa nói và làm; có vai trò tiên phong, nêu gương, đi đầu trong mọi lĩnh vực, thực sự là trung tâm quy tụ, đoàn kết của mỗi tổ chức Đảng, mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị, cơ sở; đặc biệt, có năng lực nghiên cứu và phân tích ở tầm vĩ mô để hoạch định chủ trương, nghị quyết và cụ thể hoá chủ trương, nghị quyết, biến chủ trương, nghị quyết thành hoạt động thực tiễn.
Năm, chú trọng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đây là một trong những phương thức cầm quyền chủ yếu của Đảng nhằm củng cố vai trò lãnh đạo toàn diện đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, dận tộc, tôn giáo cho đến đối ngoại. Do đó, phải phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Sáu, đẩy mạnh thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, mở rộng trong kiểm tra, giám sát với tinh thần quyết tâm cao, bản lĩnh vững vàng, giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương, tập trung xử lý dứt điểm tình trạng quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân, mọi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng.
Đảng ta là một đảng cầm quyền, trải qua biết bao giang nan thử thách, nhân dân đã tin Đảng, trao cho Đảng vai trò dẫn dắt cả dân tộc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam phải nâng cao năng lực cầm quyền, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Trích dẫn
(1), (3), (8), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, t.12, tr. 498.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2000, t.12, tr. 503.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2000, t. 6, tr. 175.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, t. 13, Tr.275.
(6) Điều lệ Đảng Cọng sản Việt Nam, Nxb CTQG-ST, Hà nội 2016. Tr. 4.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, t.12, tr. 498
(10) Hoàng Tùng: Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và giá trị chỉ đạo đối với cách mạng Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 4-1992, tr. 12-13.
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2000, t. 8, tr. 276.
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb Sự thật, Hà nội, 1985, Tr. 299.
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb Sự thật, Hà nội, 1985, Tr. 301.
ThS. Nguyễn Sơn Hải - Trưởng Khoa Xây dựng Đảng