Trường Chính trị Tôn Đức Thắng Tỉnh An Giang

Đảng Cộng sản Việt Nam kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ

06:34 31/01/2024

ThS. Huỳnh Thị Minh Trang

Giảng viên Khoa Lý luận Cơ sở

Công tác cán bộ được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là then chốt của then chốt, chính vì thế trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn nhận thức những nguy cơ và hậu quả khôn lường của sự tha hóa, mất kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Bài viết sử dụng phương pháp phân tích nội dung từ các văn kiện, nghị quyết, quy định của Đảng về kiểm soát quyền lực công tác cán bộ. Từ đó, cung cấp những luận cứ khoa học giúp nâng cao vai trò, sự lãnh đạo toàn diện của Đảng với công tác cán bộ, góp phần xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có đầy đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, đạo đức, hết lòng phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân; đáp ứng yêu cầu củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

1. Đặt vấn đề

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác cán bộ vì “cán bộ là gốc của mọi công việc” và “muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Chính vì thế công tác cán bộ là vấn đề sống còn của Đảng ta. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được về công tác cán bộ thì một số cán bộ đã lợi dụng những kẻ hở của pháp luật, quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ để trục lợi từ công tác cán bộ và làm cho cán bộ ngày càng thoái hóa, biến chất. Chính vì thế việc đi sâu vào nghiên cứu và hệ thống hóa quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ sẽ củng cố cơ sở lý luận cho việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ trong giai đoạn hiện nay.

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ

2.1.1. Giai đoạn trước đổi mới

Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới được thành lập, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến vấn đề kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ nhằm ngăn chặn, phòng ngừa nguy cơ suy thoái, tha hóa của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bằng tư duy chính trị nhạy bén, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nguyên nhân của sự suy thoái, tha hóa quyền lực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đó chính là từ chủ nghĩa cá nhân, vì nó mà một số cán bộ, đồng chí đã lạm dụng quyền lực mà nhân dân giao phó để trục lợi, tham ô, hủ hóa. Ngoài ra, Người đã chỉ rõ bốn nhiệm vụ trọng tâm của công tác bộ gồm: “Huấn luyện cán bộ; dạy và dùng cán bộ; lựa chọn cán bộ và chính sách cán bộ”1

Vận dụng những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Vấn đề cán bộ là một vấn đề rất quan trọng trong công tác tổ chức của Đảng, bởi vì cán bộ là người có nhiệm vụ đem đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng tuyên truyền, giáo dục quần chúng và tổ chức quần chúng thực hiện. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhất định Đảng ta phải làm tốt công tác cán bộ, phải ra sức nâng cao trình độ hiểu biết và năng lực công tác của cán bộ”2.

2.1.2. Giai đoạn sau đổi mới

Thời kỳ đổi mới, Đại hội VI đặt ra nhiệm vụ phải đổi mới về công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ; kiên quyết chống lại những hiện tượng tiêu cực, lạm dụng chức quyền trong việc quản lý, đánh giá, bổ nhiệm cán bộ và thực hiện dân chủ hóa công tác cán bộ. Báo cáo chính trị Đại hội khẳng định: “Chống tệ quan liêu, cửa quyền trong công tác lựa chọn, bố trí cán bộ. Dân chủ hóa công tác cán bộ bằng những quy chế rõ ràng… Cơ chế quản lý cán bộ có đúng thì sự đánh giá cán bộ mới chính xác, mới phát hiện, đề bạt được cán bộ tốt, thay đổi những người xấu và yếu kém, loại trừ những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi và những động cơ không lành mạnh trong công tác cán bộ”3.

Kế thừa những quan điểm đó, Đại hội VII của Đảng đã yêu cầu phải tiếp tục đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh và đồng bộ bằng những quy định, tiêu chuẩn cho từng loại, từng chức danh cán bộ để đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ, “chấm dứt tình trạng bố trí cán bộ theo kiểu thân quen, cảm tính chủ quan”4.

Tại Đại hội VIII, Đảng đã đề ra chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, có quy chế rõ ràng, chặt chẽ về công tác cán bộ, đổi mới quan niệm và phương pháp đánh giá, bố trí cán bộ một cách khách quan, công tâm, phải “căn cứ vào những việc làm cụ thể của mỗi người cả ưu điểm và khuyết điểm, trong từng thời gian nhất định. Những nhận xét, kết luận về cán bộ, mọi công việc về nhân sự nhất thiết phải do tập thể có thẩm quyền quyết định. Khắc phục cách làm đơn giản, thành kiến, thiếu công tâm, dân chủ hình thức”5. Tiếp sau đó, Hội nghị Trung ương lần thứ ba khóa VIII đã ban hành Nghị quyết về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nghị quyết đã khẳng định mục tiêu của chiến lược cán bộ thời kỳ mới là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu, có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu…”6. Đồng thời, Nghị quyết còn đề cập những nhiệm vụ, phương hướng, giải pháp trọng tâm để khắc phục những hạn chế, yếu kém, nguy cơ tha hóa, lạm quyền trong công tác cán bộ. Công tác kiểm tra, giám sát cán bộ phải tạo điều kiện để nhân dân giám sát các công việc, phẩm chất của cán bộ và bảo đảm thực hiện quyền khiếu nại của nhân dân đối với cán bộ.

Những chủ trương của Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, chính là cơ sở để Đại hội IX và Đại hội X của Đảng tiếp tục hoàn thiện, đổi mới toàn diện về công tác cán bộ, bảo đảm dân chủ, khoa học trong mọi khâu của công tác cán bộ, để từ đó tuyển chọn, đào tạo những cán bộ có năng lực, đạo đức, “thay thế kịp thời những người kém năng lực và kém phẩm chất, có khuyết điểm nghiêm trọng. Khắc phục những biểu hiện cá nhân, cục bộ, không công tâm, nể nang, tuỳ tiện trong công tác cán bộ”7.

Đến đại hội XI, Đảng đã quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp, người đứng đầu về công tác cán bộ, hoàn thiện các tiêu chí đánh giá, kiểm tra, giám sát cán bộ để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Báo cáo chính trị Đại hội khẳng định: “Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được bổ sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu… Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy huân chương”8.

Đại hội lần thứ XII của Đảng đánh dấu sự đột phá trong quan điểm, chủ trương của Đảng về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ khi vấn đề này được đề cập trực tiếp trong Báo cáo chính trị Đại hội: “Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phải gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; xác định rõ quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách; quyền hạn đi đôi với trách nhiệm và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương”9. Trong nhiệm kỳ này, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết chuyên đề liên quan đến kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, đầu tiên là Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết về Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong nội bộ, Nghị quyết đã đặt ra nhiệm vụ nâng cao hiệu quả công tác cán bộ và đề ra các giải pháp đẩy lùi tình trạng suy thoái, lạm dụng, tha hóa quyền lực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, “kiên quyết khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động cơ đúng đắn, thực sự tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, thực sự là cán bộ của dân, phục vụ nhân dân”10. Cấp ủy Đảng phải lãnh đạo, thực hiện những giải pháp về công tác chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình và giải pháp cơ chế, chính sách nhằm kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc thực thi quyền lực. Rà soát, hoàn thiện các quy định, về quản lý, điều hành bảo đảm công khai, minh bạch, xóa bỏ cơ chế xin - cho, duyệt - cấp; ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực, lợi ích nhóm trong sử dụng, quản lý cán bộ. Kế thừa và phát triển những quan điểm về đổi mới công tác cán bộ gắn với việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ đã xác định một trong những nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trong công tác cán bộ đó là do “chưa có cơ chế đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực”11 và yêu cầu phải có những giải pháp hữu hiệu để kiểm soát quyền lực theo hướng ở đâu có quyền lực ở đó có sự kiểm soát “mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền hạn, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm… Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lợi dụng quyền lực để thực hiện những hành vi sai trái trong công tác cán bộ hoặc tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền”12.

Trên tinh thần đó, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 205-QĐ/TW về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Đây chính là lần đầu tiên Đảng ta đưa ra khái niệm kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Quy định yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo địa phương, cơ quan, đơn vị và người đứng đầu chịu trách nhiệm lãnh đạo, thực hiện, kiểm tra giám sát việc thực hiện các nguyên tắc, quy định, quy chế về công tác cán bộ. Những trường hợp vi phạm, bao che, tiếp tay cho hành vi chạy chức, chạy quyền thì sẽ bị xử lý kỷ luật đảng, truy cứu theo quy định của pháp luật.

Như vậy, trong tiến trình đồng hành cùng với dân tộc và sau hơn 35 năm lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng đã rút ra khái niệm kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và tiếp tục xây dựng tiến tới hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ ở những nhiệm kỳ sau. Đây chính là sự quan tâm của Đảng ta đối với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn đội ngũ cán bộ xem đó là then chốt của then chốt đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển của quốc gia, của dân tộc.

2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ

Quan điểm về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ chính là cơ sở để hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Thực trạng đặt ra cho vấn đề kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ phải xây dựng được một cơ chế chặt chẽ để nhốt quyền lực bằng cơ chế, pháp luật. “Không thể kêu gọi suông, giáo dục suông mà phải bằng luật pháp, phải nhốt quyền lực vào trong lồng pháp luật, phải có đòn roi để làm sao cho anh không dám làm, không muốn làm, nhúng tay vào rồi thì phải sửa”13. Chính vì thế, với vị trí là lực lượng duy nhất lãnh đạo toàn diện Nhà nước và xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện rõ vai chủ đạo trong việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ trên một số mặt công tác sau:

2.2.1. Về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng

Nhằm tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên góp phần kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Những nhiệm kỳ gần đây, Ban Chấp hành Trung ương đều ban hành Nghị quyết chuyên đề về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó tập trung vào những giải pháp, nhiệm vụ nhằm nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên. Nếu như Hội nghị Trung ương 4 khoá XI mới chỉ tập trung bàn về những giải pháp đổi mới, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên thì đến Hội nghị Trung ương 4 khoá XII đã có sự bổ sung toàn diện, căn bản về phạm vi, nội dung các giải pháp về chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, suy thoái đạo đức, lối sống.

Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, toàn hệ thống chính trị đã triển khai thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách toàn diện, đồng bộ. Lan tỏa thành phong trào trong toàn xã hội, phát huy, nhân rộng những tấm gương người tốt việc tốt; lên án, bài trừ những hành vi tiêu cực, lạm dụng chức quyền, cá nhân chủ nghĩa. Những kết quả tích cực từ việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã góp phần đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, góp phần tạo ra những đột phá trong việc phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước.

2.2.2. Về tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ

Năm 2014, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 165-QĐ/TW về việc lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với thành viên lãnh đạo cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Việc lấy phiếu tín nhiệm chính là cơ sở sàng lọc, đánh giá, bổ nhiệm cán bộ và được thực hiện định kỳ hằng năm, vào năm thứ 3 giữa nhiệm kỳ đại hội đảng bộ các cấp trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội từ Trung ương đến cấp có đơn vị trực thuộc, “Những đồng chí có tín nhiệm thấp, tùy theo mức độ sẽ xem xét không quy hoạch chức vụ cao hơn hoặc cho từ chức, cho thôi giữ chức vụ, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác”14

Cùng với đó, bằng sự quyết tâm, quyết liệt của toàn đảng và toàn hệ thống chính trị, thời gian qua hàng loạt các vụ việc sai phạm, lạm dụng chức quyền trong tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ đã được phát hiện xử lý kịp thời. Trong giai đoạn 2016 - 2020, qua các đợt kiểm tra, rà soát xử lý các trường hợp chưa thực hiện đúng các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, thủ tục trong công tác quy hoạch, luân chuyển, điều động, đề bạt, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, giới thiệu ứng cử đã phát hiện 55.697/2.169.908 trường hợp thiếu tiêu chuẩn, điều kiện và 2.827/2.169.908 trường hợp sai về quy trình, thủ tục15. Riêng ở Trung ương đã rà soát thẩm định, kết luận về tiêu chuẩn chính trị 9.682 lượt hồ sơ cán bộ; qua thẩm định đã đề nghị không phê duyệt quy hoạch bổ nhiệm 106 trường hợp16.

2.2.3. Về quản lý cán bộ

Thực hiện chủ trương của Đảng về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 108/2014/NĐ-CP về Chính sách tinh giản biên chế và Nghị định số 113/2018/NĐ-CP về Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2014/NĐ-CP về Chính sách tinh giản biên chế để chỉ đạo các bộ ngành, các cơ quan hành chính trong cả nước thực hiện sắp xếp, kiện toàn bộ máy, tổ chức và thực hiện tinh giản biên chế, cắt giảm những thủ tục phiền hà, dễ tạo ra nguy cơ tiêu cực, tham nhũng, lạm quyền. Với sự nỗ lực của Chính phủ, các bộ ngành và toàn hệ thống hành chính, số lượng biên chế đã được tinh giản, tinh gọn, nếu trong giai đoạn 2011 - 2016 tổng biên chế công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước từ cấp huyện trở lên giảm được 4.131 biên chế17 thì đến năm 2021 số biên chế công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước đã giảm 27.504 biên chế18.

Khắc phục tình trạng chồng chéo tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các bộ, ngành, địa phương trong quản lý và sử dụng cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan nhà nước đã thực hiện rà soát xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm sự thống nhất, liên thông với các quy định của Đảng về sử dụng, quản lý cán bộ; đẩy mạnh phân cấp quản lý, tổ chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. “Xây dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; thực hiện tốt quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền; xử lý nghiêm minh, đồng bộ kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật đối với cán bộ có vi phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu”19

2.2.4. Về kiểm tra, giám sát và đánh giá cán bộ

Nhận thức tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát đối với việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, Đảng đã ban hành nhiều quy định, quy chế cụ thể về kiểm tra, giám sát, đánh giá cán bộ, nhất là cán bộ cấp lãnh đạo quản lý như: Quy định số 214-QĐ/TW, ngày 02/01/2020 của Bộ Chính trị về khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; Quy định số 179-QĐ/TW ngày 25/02/2019 của Bộ Chính trị về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ; Quy định số 89-QĐ/TW ngày 4/8/2017 của Bộ Chính trị về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp,… Đồng thời, thực hiện kiện toàn các cơ quan chuyên trách về công tác kiểm tra giám sát trong đảng và bộ máy nhà nước như: Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban Nội chính Trung ương, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng,…

Phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể trong công tác kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định 218-QĐ/TW về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, nhằm quy định cụ thể về nội dung, phương thức góp ý của nhân dân, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể đối với tổ chức, cá nhân đang làm việc trong các cơ quan đảng, nhà nước, vai trò của cấp ủy đảng, các cơ quan chính quyền trong việc cung cấp thông tin về các chủ trương, chính sách, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, đảng viên và tổ chức lấy ý kiến nhận xét của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên.

Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, Chính phủ đã triển khai 39.742 cuộc thanh tra hành chính và hơn 834.640 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành; kiến nghị thu hồi 124.125 tỷ đồng, 19.744 ha đất; phát hiện 441 vụ, 696 người có dấu hiệu tham nhũng; kiến nghị xử lý hành chính 23 tập thể, 596 cá nhân, xử lý trách nhiệm 157 người đứng đầu; chuyển cơ quan điều tra 162 vụ, 272 đối tượng20.

3. Kết luận

Điểm lại quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng đổi mới, hoàn thiện tư duy lý luận về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và luôn thể hiện vai trò chủ đạo của mình trong việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Chính điều đó đã nâng cao vai trò, hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ trong thời kỳ mới; tạo ra cơ sở pháp lý chặt chẽ để kiểm soát quyền lực, phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể trong việc tham gia kiểm tra, giám sát cán bộ; góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đáp ứng yêu cầu củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

Chú thích:

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, T 5, tr 309.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, T 21, tr 647-648.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, T 47, tr 469.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, T 52, tr 103.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, T 56, tr 421.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, T 55, tr 343.

7.Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2018, T 65, tr 228.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr 261.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr 203.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, T.1, tr 20.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, T.1, tr 210.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, T.1, tr 223.

13. Nam Việt: Chống tham nhũng đi cùng xây dựng bộ máy. Báo Điện tử Đại đoàn kết. http://daidoanket.vn/chong-tham-nhung-di-cung-xay-dung-bo-may-426432.html, 29/12/2018.

14. Bộ Chính trị: Quy định về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với thành viên lãnh đạo cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - Xã hội, Số 262-QĐ/TW, 2014.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam: Các Nghị quyết Trung ương Đảng 2016 - 2022, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr 194.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Các Nghị quyết Trung ương Đảng 2016 - 2022, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr 195.

17. Thủ tướng Chính phủ: Báo cáo công tác nhiệm kỳ 2011 - 2016 của Chính phủ, 82/BC-CP, 2016.

18.Bộ Nội vụ: Báo cáo tổng kết công tác giai đoạn 2016 - 2020 và triển khai nhiệm vụ công tác năm 2021 ngành Nội vụ, 135/BC-BNV, 2021, tr 3.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, T.2, tr 178-179.

20. Thủ tướng Chính phủ: Báo cáo công tác nhiệm kỳ 2011 - 2016 của Chính phủ, 82/BC-CP, 2016, tr 16.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Chính trị: Quy định về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với thành viên lãnh đạo cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - Xã hội, Số 262-QĐ/TW, 2014.

2. Bộ Chính trị: Quy định về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền, Số 205-QĐ/TW, 2019.

3. Bộ Nội vụ: Báo cáo tổng kết công tác giai đoạn 2016 - 2020 và triển khai nhiệm vụ công tác năm 2021 ngành Nội vụ, 135/BC-BNV, 2021.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, T 21.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, T 47.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, T 52.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, T 55.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, T 56.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2018, T 65.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2012.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Các Nghị quyết Trung ương Đảng 2016 - 2022, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, T.1.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, T.2.

16. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t 5.

17. Nam Việt: Chống tham nhũng đi cùng xây dựng bộ máy. Báo Điện tử Đại đoàn kết. http://daidoanket.vn/chong-tham-nhung-di-cung-xay-dung-bo-may-426432.html, 29/12/2018.

18. Thủ tướng Chính phủ: Báo cáo công tác nhiệm kỳ 2011 - 2016 của Chính phủ, 82/BC-CP, 2016.

các tin khác