04:46 02/01/2025
ThS. Huỳnh Thị Minh Trang
Giảng viên Khoa Lý luận Cơ sở
Tóm tắt: Kiểm soát quyền lực nhà nước là một yêu cầu tất yếu khách quan trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Hơn lúc nào hết, trở lại những luận điểm cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề quyền lực và kiểm soát quyền lực nhà nước là đòi hỏi của công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống những quan điểm sai trái, xuyên tạc. Bài viết khái quát quan điểm của V.I.Lênin về quyền lực và kiểm soát quyền lực nhà nước, qua đó góp phần nhận diện rõ hơn và sự vận dụng của Đảng về vấn đề quyền lực và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: quyền lực; kiểm soát quyền lực; quan điểm của V.I.Lênin
1. Đặt vấn đề
Quyền lực của bộ máy nhà nước được phân chia theo các hệ thống quản lý khác nhau thành một hệ thống các chức vụ, chức danh và vị trí làm việc. Mỗi chức vụ, chức danh, vị trí làm việc được phân chia một phạm vi quyền lực nhất định và giao cho một cá nhân nhất định đảm nhiệm. Như vậy, quyền lực của bộ máy quản lý trở thành quyền lực của cá nhân. Để ràng buộc các cá nhân trong bộ máy quản lý nhà nước sử dụng đúng quyền lực, sự phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nước phải gắn với những trách nhiệm cụ thể, đồng thời phải thiết lập cơ chế kiểm soát hữu hiệu để người có quyền lực sử dụng quyền lực một cách đúng đắn.
Tuy nhiên, khi bộ máy nhà nước trở thành tổ chức quan liêu, đứng trên xã hội, tự mình đề ra luật pháp, thực hành và xét xử luật pháp do mình đặt ra, thì chỉ cần tham gia vào bộ máy nhà nước, bất kể bằng cách nào, cơ quan, cá nhân công chức tự nhiên có quyền lực, không phụ thuộc vào ý nguyện của người dân. Hơn nữa, nếu bộ máy nhà nước đó xa dân, hành xử theo quan điểm độc đoán, chuyên quyền của giới cầm quyền thì bộ máy đó trở thành công cụ bảo vệ đặc quyền, đặc lợi cho những người tham gia vào bộ máy nhà nước và họ ra sức tìm mọi cách áp đặt ý chí và cơ chế quản lý xã hội có lợi cho họ. Đó là khi quyền lực chính trị trở thành độc quyền, thành sự lũng đoạn của một nhóm lợi ích nào đó và người dân ở vào trạng thái tê liệt, không có cơ chế thu lại quyền lực chính trị đã ủy quyền cho nhóm đó. Chỉ đến khi nào công dân không thể chịu đựng được tình trạng quan liêu và phi dân chủ đó, họ quyết định lựa chọn và kiểm soát bộ máy quản lý mới, thì tình trạng lũng đoạn đó mới bị phá vỡ để thiết lập lại bộ máy nhà nước với sự giao phó quyền lực và sự kiểm soát trở lại bộ máy nhà nước bằng hệ thống pháp luật mới.
Trước tình hình đó việc vận dụng, kế thừa tư tưởng của Lênin về quyền lực và kiểm soát quyền lực nhà nước có ý nghĩa vô cùng cần thiết trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
2. Nội dung
2.1. Quan điểm của Lênin về quyền lực và kiểm soát quyền lực nhà nước
Quan điểm của Lênin về quyền lực và kiểm soát quyền lực nhà nước được thể hiện khá toàn diện về sự cần thiết của việc kiểm soát quyền lực nhà nước và những phương thức, điều kiện cụ thể để đảm bảo kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu quả.
Qua thực tiễn hoạt động nhà nước Xô viết lúc bấy giờ, Lênin đã thấy được nguy cơ sự tha hóa quyền lực nhà nước ngay cả khi trong thời kỳ xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Quyền lực nhà nước là do nhân dân ủy quyền nhưng chính những người được ủy quyền lại lạm dụng, lộng quyền, không thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ được giao, bộ máy nhà nước trở thành thiết chế đứng ngoài và đứng trên nhân dân. Nguyên nhân của sự tha hóa quyền lực do hoàn cảnh chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại, chế độ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất vẫn còn tồn tại, bên cạnh đó, trình độ dân trí thấp chưa đủ sức kiểm soát quyền lực nhà nước… “Trong các tổ chức chính trị và công đoàn của chúng ta, viên chức bị hủ hóa bởi hoàn cảnh tư bản chủ nghĩa, họ có xu hướng biến thành những người quan liêu, nghĩa là thành những nhân vật có đặc quyền, thoát ly quần chúng và đứng trên quần chúng” [10, tr 141]. Chính vì vậy, để hạn chế sự tha hóa đó, đảm bảo cho quyền lực nhà nước được thực hiện có hiệu quả. Lênin chỉ ra yêu cầu phải thiết lập được cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
Trong cơ chế kiểm soát quyền lực từ bên ngoài và bên trong bộ máy nhà nước, Lênin nhấn mạnh đến việc nhân dân tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây là cơ chế hữu hiệu để đảm bảo cho các cơ quan nhà nước thực sự hoạt động vì lợi ích và ý chí của nhân dân. Người dân sau khi đã ủy quyền cho cơ quan nhà nước thì vẫn có quyền kiểm soát bộ máy nhà nước đó để không bị mất quyền, lạm quyền. Các cơ quan nhà nước phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân để không trở thành quan liêu, thành bộ máy nhà nước đứng trên nhân dân.
V.I.Lênin cho rằng, đấu tranh để giải quyết vấn đề quyền lực, mà trước hết là quyền lực nhà nước, chỉ có thể là cuộc đấu tranh chính trị với ý nghĩa là trình độ phát triển cao nhất của đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp ở trình độ đấu tranh chính trị là dấu hiệu chín muồi của cuộc cách mạng xã hội. Vấn đề của mọi cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền nhà nước. Đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh giành lấy quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước về tay giai cấp vô sản. Quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước của giai cấp vô sản là nhà nước và nền dân chủ vô sản (dân chủ cho đông đảo nhân dân lao động).
Nhấn mạnh bản chất giai cấp của nhà nước, V.I.Lênin cho rằng: “Nhà nước là một tổ chức quyền lực đặc biệt, nó là tổ chức bạo lực dùng để trấn áp một giai cấp nào đó” [10, tr 30]. Tuy nhiên, nhà nước chuyên chính vô sản, mặc dù là quyền lực của giai cấp vô sản và nhân dân lao động, nhưng là quyền lực của số đông, của một xã hội đang tiến đến không còn giai cấp đối kháng nên là nhà nước kiểu mới, dân chủ kiểu mới.
Để giành được chính quyền, Đảng Cộng sản cần đấu tranh chống các thế lực phản động. Nghĩa là, trước hết tách quần chúng ra khỏi ảnh hưởng tư tưởng của thế lực phản động. Đảng Cộng sản phải làm chủ cả ba hình thức đấu tranh: kinh tế, chính trị (giành lấy chính quyền) và đấu tranh lý luận. Đặc biệt, V.I.Lênin đề cao vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, coi đó là những thực thể cấu thành hệ thống chuyên chính vô sản. Ông nhấn mạnh sự cần thiết xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản trong điều kiện đã nắm chính quyền sao cho Đảng Cộng sản đủ năng lực, tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm và danh dự của thời đại. Trước thực tế xuất hiện một số cán bộ lãnh đạo đảng thiếu tri thức, kinh nghiệm, trình độ văn hóa thấp, có thái độ quan liêu, xa rời quần chúng, xa rời thực tiễn, thậm chí thoái hóa, biến chất bởi tham vọng quyền lực, thói kiêu ngạo cộng sản, vụ lợi cá nhân, nhận hối lộ…, V.I.Lênin đề cao nhiệm vụ chỉnh đốn đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, coi đó là nhiệm vụ có tính then chốt.
Đặc biệt, trong xây dựng thể chế dân chủ mới, dân chủ xã hội chủ nghĩa, V.I.Lênin cho rằng, sau khi giai cấp vô sản nắm được chính quyền, cuộc đấu tranh của nó vì những mục tiêu dân chủ không những không dừng lại mà còn tiếp tục trong những điều kiện mới với những nội dung, hình thức, chất lượng mới ngày càng đầy đủ và triệt để hơn và vạch rõ: tính chất xã hội chủ nghĩa của dân chủ vô sản: một là, các cử tri đều là quần chúng lao động; hai là, mọi thủ tục cũ đều phải phá bỏ, nhân dân sẽ xây dựng lại các thủ tục, thời hạn bầu cử và có toàn quyền bãi miễn những người mà họ đã bầu ra; ba là, hình thành một tổ chức quần chúng tốt nhất của đội tiền phong của những người lao động để giúp toàn thể nhân dân có thể làm chủ trong thực tế. Ngoài ra cần xây dựng chế độ tự quản như là một hình thức của chế độ dân chủ vô sản. Từng bước thiết lập một nền tự quản địa phương rộng rãi. Ông chủ trương “Phế bỏ chế độ đại nghị (là chế độ tách rời công tác lập pháp và công tác hành pháp); hợp nhất công tác lập pháp và công tác hành pháp của nhà nước lại; hợp nhất công tác quản lý và công tác lập pháp” [7, tr 91].
V.I.Lênin nhấn mạnh sứ mệnh của giai cấp vô sản là: thông qua nhà nước của mình từng bước tổ chức để toàn thể nhân dân tham gia quản lý nhà nước một cách dân chủ những tư liệu sản xuất đã tước đoạt được của giai cấp tư sản. Người nói, chính quyền Xô viết, “đồng thời với việc mở rộng rất nhiều chế độ dân chủ - lần đầu tiên biến thành chế độ dân chủ cho người nghèo, cho nhân dân lao động, chứ không phải cho bọn nhà giàu…” [10, tr 109]. Sự phát triển của chế độ dân chủ một cách đầy đủ là làm cho toàn thể nhân dân thực sự tham gia một cách bình đẳng vào mọi công việc của nhà nước. Người viết: “Không có chế độ dân chủ thì chủ nghĩa xã hội không thể thực hiện được theo hai ý nghĩa sau đây: 1) Giai cấp vô sản không thể hoàn thành được cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu họ không được chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho chế độ dân chủ. 2) Chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của mình và sẽ không dẫn được nhân loại đi đến chỗ thủ tiêu nhà nước, nếu không thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ” [5, tr 167).
Về cơ chế thực hiện dân chủ, V.I.Lênin cho rằng, nội dung dân chủ phải được đảm bảo bằng Hiến pháp và pháp luật. Người đề nghị xây dựng luật, xây dựng cơ chế để quần chúng kiểm tra, giám sát cơ quan nhà nước và cán bộ quản lý nhà nước, coi đó là biện pháp hữu hiệu chống quan liêu, tham ô, lãng phí. Do đó, không phải chỉ tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố và ra sắc lệnh về dân chủ, không phải chỉ giao trách nhiệm thực hiện chế độ dân chủ cho những người đại diện nhân dân trong những cơ quan đại biểu là đủ, mà phải xây dựng ngay chế độ dân chủ từ cơ sở, dựa vào ý kiến của bản thân quần chúng, với sự tham gia thực sự của quần chúng vào tất cả đời sống của nhà nước. Người nhấn mạnh: xây dựng và thực hiện quyền lực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là mục tiêu, là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cần xác lập và giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước nhằm đưa lại nhiều nhất những cơ hội để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, phát huy tính chủ động, sáng tạo của quần chúng trong xây dựng chế độ mới. Thành công trong lãnh đạo và quản lý là ở chỗ biết sống trong lòng quần chúng, biết tâm trạng quần chúng và giữ được lòng tin tuyệt đối của quần chúng.
Bên cạnh đó, V.I.Lênin phát động phong trào cải cách bộ máy quản lý nhà nước. Theo Người, bộ máy vững mạnh phải thích nghi được với mọi sự biến đổi. Muốn chế độ vững mạnh thì bộ máy quản lý nhà nước phải hoàn toàn phục tùng mục tiêu chính trị. Thành phần bộ máy phải bảo đảm được việc đông đảo quần chúng có thể kiểm tra được mọi công việc của nhà nước. V.I.Lênin đưa ra chủ trương công nhân hóa các cục, các cơ quan trung ương, các bộ phận của chính quyền Xô viết nói chung để cho đông đảo quần chúng học được cách quản lý nhà nước và đẩy mạnh cải cách bộ máy hành pháp vì: “Bộ máy ấy rất thường không phục vụ chúng ta mà lại chạy ngược lại chúng ta. Muốn cải thiện nó phải có nhiều cố gắng và tài năng. Chống quan liêu đòi hỏi phải nâng cao không ngừng trình độ văn hóa của cán bộ và phải rèn luyện cả đức tính kiên trì” [9, tr 217]. V.I.Lênin đề cao tính thượng tôn pháp luật trong vận hành nhà nước XHCN và tính thống nhất của pháp luật trong toàn quốc, chống lại thói quen tùy tiện, địa phương chủ nghĩa. V.I.Lênin viết: “Chính phủ ta đã đấu tranh không khoan nhượng chống thói chuyên quyền và những hành động vi phạm pháp luật” [8, tr 588]. Theo đó, Người mong muốn: các Xô viết địa phương và cơ quan trực thuộc của nó đề ra được các biện pháp để đấu tranh với thói chuyên quyền và những hành động vi phạm pháp luật. Để đảm bảo tính pháp chế trong hành pháp, ủy viên công tố phải chịu trách nhiệm để các quyết định của địa phương không đi ngược lại pháp luật.
Theo V.I.Lênin, quan liêu là “những nhân vật có đặc quyền, thoát ly quần chúng, và đứng trên quần chúng” [10, tr 141]. Nguồn gốc của quan liêu, tham nhũng là tư tưởng tư hữu và tính bảo thủ. Để giải quyết tận gốc quan liêu, tham nhũng phải giải quyết triệt để vấn đề giai cấp và tư hữu, Người viết: “Chừng nào mà bọn tư bản chưa bị tịch thu tài sản, chừng nào mà giai cấp tư sản chưa bị lật đổ, thì ngay những viên chức của giai cấp vô sản cũng không thể tránh khỏi “quan liêu hóa” đến một mức nào đó” [10, tr 141-142]. V.I.Lênin cho rằng chế độ dân chủ vô sản là chế độ sẽ thi hành ngay lập tức những biện pháp để chặt tận gốc chế độ quan liêu và sẽ có thể thi hành những biện pháp ấy tới cùng, tới chỗ phá hủy toàn bộ chế độ quan liêu, tới chỗ hoàn toàn xây dựng một chế độ dân chủ cho nhân dân.
Để chống quan liêu, V.I.Lênin chủ trương: “lựa chọn người và kiểm tra sự thực hiện. Đó là vấn đề then chốt” [9, tr 450]. Cán bộ phải học tập và rèn luyện tinh thần, thái độ và phương pháp ứng xử dân chủ với nhân dân cùng với việc học các tri thức khoa học, luật pháp, kỹ thuật quản lý, học buôn bán. Phải đề phòng tình trạng cán bộ thiếu hiểu biết, thiếu kỹ năng đem chức vụ ra dọa nạt dân chúng. V.I.Lênin yêu cầu phải lựa chọn, đào tạo, thử thách cán bộ bằng một sự kiểm tra nghiêm ngặt, nhất là đối với cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra lấy từ đội ngũ công, nông ưu tú nhất. Đặc biệt là khuyến khích đưa người ngoài đảng vào làm trong bộ máy nhà nước. Đồng thời, tăng cường kỷ luật lao động, tăng cường sự kiểm tra, kiểm soát một cách chặt chẽ, xử lý nghiêm những kẻ quan liêu. Phải tạo điều kiện để quần chúng lao động tham gia kiểm tra, kiểm soát. Mọi người đều phải tham gia kiểm tra, kiểm soát. Kiểm tra không mang nghĩa xấu mà mang nghĩa cung cấp thông tin để có quyết định đúng đắn.
2.2. Sự kế thừa, vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Quan điểm về kiểm soát quyền lực nhà nước của V.I.Lênin đã được nghiên cứu vận dụng một cách phù hợp trong điều kiện thực tiễn ở nước ta. Những nội dung vận dụng qua niệm của V.I.Lênin và định hướng tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Xác định rõ yêu cầu quan trọng cần phải xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Sau một thời gian dài, chúng ta chưa chú ý đúng mức đến việc xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự cần thiết phải thực hiện kiểm soát quyền lực của bộ máy nhà nước và điều kiện thực tiễn của Việt Nam, Đại hội XI của Đảng đã xác định rõ nhiệm vụ cấp thiết phải xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” [1, tr 247). Quan điểm chỉ đạo trên của Đảng đã được Hiến pháp năm 2013 quy định thành nguyên tắc trong tổ chức quyền lực nhà nước của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Khoản 3, Điều 2). Chính vì vậy, quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay thực chất cũng là quá trình hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đặc biệt là kiểm soát giữa các nhánh quyền lực. Nhiệm vụ này tiếp tục được Đại hội XII của Đảng xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong xây dựng và hoàn thiện Bộ máy Nhà nước ta hiện nay: “Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất” [2, tr 176]. Và đến Đại hội XIII của Đảng lại càng nhấn mạnh: "Hệ thống pháp luật được hoàn thiện một bước cơ bản. Vai trò của pháp luật và thực thi pháp luật ngày càng được chú trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước và đời sống xã hội. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực. Bộ máy nhà nước bước đầu được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn gắn với tinh giảm biên chế, hoạt động hiệu lực, hiệu quả" [3, tr 71-72]. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, Đảng và Nhà nước ta phải đối mặt với nhiều thách thức, nhất là vấn nạn tham nhũng, lãng phí diễn ra phức tạp; các hiện tượng lộng quyền, lạm quyền, vi phạm quyền dân chủ, chạy theo lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm; tính hợp hiến, hợp lý của các quyết định quản lý nhà nước chưa cao... càng cho thấy yêu cầu bức thiết của việc hoàn thiện để đảm bảo vận hành hiệu quả cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm khắc phục và hạn chế tối đa những biểu hiện tiêu cực trên.
Đối với cơ chế kiểm soát quyền lực từ bên ngoài bộ máy nhà nước. Chúng ta đã ghi nhận quyền bầu cử và bãi miễn của nhân dân đối với các đại biểu của mình, đây là một trong những quyền cơ bản của công dân nhằm phát huy dân chủ và đảm bảo sự kiểm soát quyền lực của nhân dân đối với bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, chỉ mới có quyền bầu cử là được đảm bảo thực hiện, còn quyền bãi miễn của nhân dân vẫn chưa được bảo đảm thực hiện trên thực tế ở nước ta vì những quy trình để thực hiện quyền này vẫn còn nhiều phức tạp. Cho đến nay vẫn chưa có cơ chế quy định cụ thể quy trình và chưa thực hiện lần nào quyền bãi miễn của nhân dân đối với các đại biểu của mình. Do vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu ban hành các quy định để đảm bảo thực hiện cơ chế này.
Bên cạnh đó việc vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về quyền kiểm tra hoạt động của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước thông qua các cơ quan thanh tra của chính nhân dân hoặc tham gia phối hợp với các cơ quan nhà nước thì hiện nay, chúng ta đã thành lập ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư ở cộng đồng, cơ quan thanh tra của nhà nước và các bộ, ngành, kiểm toán... Tuy nhiên, để phát huy hiệu quả cơ chế kiểm soát này như hiện nay thì các biện pháp, hình thức để nhân dân có thể kiểm soát hoạt động của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước cần phải được mở rộng và đa dạng hơn nữa đối với từng đối tượng cán bộ, công chức và cơ quan nhà nước cụ thể. Ví dụ như nhân dân giám sát hoạt động của các cơ quan, đại biểu dân cử bằng cách nào, theo dõi và truyền hình trực tiếp các cuộc họp Quốc hội, hội đồng nhân dân, thông qua theo dõi cương lĩnh tranh cử của các đại biểu mà họ đã đưa ra trước khi bầu cử; hay là nhân dân theo dõi và giám sát hoạt động của cán bộ của cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp. Nghĩa là cần phải mở rộng và cụ thể hơn nữa các hình thức để nhân dân kiểm soát. Các hình thức để nhân dân thể hiện ý chí của mình khi đã có kết quả kiểm soát, đã biết hoạt động của cán bộ, công chức đó có đúng nhiệm vụ hay không, có thực sự đại diện cho ý chí và quyền lợi của nhân dân hay không cũng phải có sự bổ sung, phát triển một cách đa dạng hơn nữa theo quan điểm của V.I.Lênin, không chỉ thông qua quyền bầu cử, quyền bãi miễn đại biểu dân cử, hoặc đến các phòng tiếp công dân mà có thể gửi các kiến nghị đến chính cơ quan nơi cán bộ công tác, khiếu kiện lên cơ quan tư pháp để họ tham gia khi có dấu hiệu vi phạm hay thông qua báo chí... Đây là những nội dung cần có sự bổ sung, phát triển quan điểm của V.I.Lênin. Đồng thời, trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên ngoài, V.I.Lênin chủ yếu nhấn mạnh đến chủ thể thực hiện quyền này là nhân dân, còn các chủ thể khác chưa được nói đến nhiều như cơ chế kiểm soát quyền lực của Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội đối với bộ máy nhà nước, vì vậy cần tiếp tục có sự bổ sung, phát triển về cơ chế kiểm soát của các chủ thể bên ngoài này đối với quyền lực nhà nước.
Đối với cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước. Những quan điểm, định hướng về kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước ở nước ta trong thời gian qua đã thể hiện rõ sự vận dụng, phát triển trên nền tảng tư tưởng của V.I.Lênin. Vai trò kiểm soát quyền lực của tư pháp đối với quyền lực lập pháp và hành pháp được thể hiện rõ hơn theo quan điểm của V.I.Lênin với chức năng kiểm sát chung của Viện Kiểm sát nhân dân ở nước ta. Trong quá trình thực hiện chức năng này, Viện Kiểm sát nhân dân đã thực hiện khá hiệu quả việc kiểm soát thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp bộ và chính quyền địa phương.
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nước ta cũng có nhiều điểm vận dụng sáng tạo so với quan điểm của V.I.Lênin. Chẳng hạn, đối với vai trò kiểm soát của cơ quan lập pháp đối với quyền lực hành pháp và quyền tư pháp mặc dù chưa được đề cập và bàn luận chi tiết trong tư tưởng của V.I.Lênin, nhưng chúng ta cũng đã xây dựng được những cơ chế cụ thể về cơ chế kiểm soát này thông qua những hình thức giám sát của cơ quan quyền lực (Quốc hội và HĐND các cấp) đối với cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp và thông qua cơ chế lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những chức danh trong bộ máy hành pháp và tư pháp do Quốc hội và Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Cơ chế kiểm soát này vẫn đang vận hành trong thực tiễn, nhưng cần phải tiếp tục được nghiên cứu để đổi mới, hoàn thiện cả về lý luận và thực tiễn thì mới nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực của cơ quan lập pháp đối với quyền hành pháp và tư pháp.
Quan điểm của V.I.Lênin về yêu cầu, điều kiện để đảm bảo tính hiệu lực trong kiểm soát quyền lực nhà nước đó là đảm bảo tính độc lập, đủ quyền lực của các chủ thể kiểm soát đối với các đối tượng kiểm soát. Để đảm bảo tính độc lập đó theo V.I.Lênin trước hết phải hạn chế việc các đại biểu trong cơ quan lập pháp lại kiêm nhiệm các chức vụ trong cơ quan hành pháp, tư pháp. Tuy nhiên, trong thực tiễn tổ chức bộ máy nhà nước ở nước ta chưa thực sự đảm bảo được yêu cầu này. Thực tế cơ cấu đại biểu trong các cơ quan dân cử ở nước ta cho thấy, tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách ít, đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân làm việc trong các cơ quan hành pháp, tư pháp còn nhiều gây tâm lý nể nang, né tránh trong hoạt động kiểm soát quyền lực.
Những yêu cầu, điều kiện đảm bảo tính hiệu lực của kiểm soát quyền lực nhà nước là đảm bảo tính độc lập giữa chủ thể và đối tượng kiểm soát quyền lực nhà nước mà V.I.Lênin đưa ra là rất đúng đắn. Tuy nhiên, vẫn cần tiếp tục có sự bổ sung, phát triển.
3. Kết luận
Có thể nói, quan điểm của V.I.Lênin đã đề cập đến những vấn đề khái quát và khá toàn diện về kiểm soát quyền lực nhà nước. Cơ chế, điều kiện đảm bảo tính hiệu lực kiểm soát quyền lực nhà nước mà V.I.Lênin nói đến vẫn là những định hướng, yêu cầu vẫn còn nguyên giá trị đối với việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu vận dụng những quan điểm của V.I.Lênin, chúng ta vẫn cần có sự bổ sung, phát triển cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay./.
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t1.
4. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Maxcơva, 1977, t25.
5. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Maxcơva, 1980, t30.
6. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Maxcơva, 1980, t33.
7. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Maxcơva, 1980, t36.
8. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Maxcơva, 1980, t37.
9. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Maxcơva, 1980, t44.
10. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t33.