Trường Chính trị Tôn Đức Thắng Tỉnh An Giang

Luật trưng cầu ý dân – Món nợ nhà nước đã trả cho dân

04:24 16/05/2017

Công dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. Đây là một quyền cơ bản của công dân, thể hiện quyền dân chủ trực tiếp của công dân, đã được khẳng định từ khi Nhà nước ban hành Hiến pháp 1992: “ Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. (Điều 53 Hiến pháp 1992). Đây là một quyền Hiến định. Nhưng từ năm 1992 đến nay, Nhà nước ta chưa tạo được điều kiện để người dân thực hiện quyền biểu quyết của mình do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có một nguyên nhân chủ yếu là do Nhà nước chưa ban hành được luật để cụ thể hóa quyền biểu quyết của công dân – Luật Trưng cầu ý dân. Đây là món nợ mà Nhà nước thiếu dân trong thời gian khá dài.

       

     Năm 2013, Nhà nước ta ban hành Hiến pháp mới, trong đó, quyền con người, quyền công dân được đề cao và ghi nhận ở Chương 2 của Hiến pháp (Quyền công dân trong Hiến pháp 1992 được ghi ở Chương 5), thể hiện chính sách nhất quán của Nhà nước ta là luôn tôn trọng, đảm bảo thực hiện quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp. Tại Điều 14 Hiến pháp 2013, Nhà nước khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Và theo đó, “quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”. Trên tinh thần này, Hiến pháp 2013 ghi nhận rõ các quyền con người, quyền công dân, trong đó, quyền biểu quyết của công dân được Hiến pháp khẳng định thành một quyền riêng tại Điều 29: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”.

       

     Thực hiện quy định của Hiến pháp, ngày 25 tháng 11 năm 2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII thông qua Luật Trưng cầu ý dân – một món nợ Nhà nước đã trả cho dân. Luật Trưng cầu ý dân có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2016, đánh dấu một bước tiến lớn trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Luật  ra đời sẽ tạo điều kiện pháp lý để người dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của mình. Theo Luật, công dân Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên tính đến ngày trưng cầu ý dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, trừ những người bị kết án tử hình, đang chấp hành hình phạt tù giam, người mất năng lực hành vi dân sự (Đ 5, Đ 25).

       

     Trưng cầu ý dân là việc nhà nước tổ chức để cử tri cả nước trực tiếp biểu quyết bằng hình thức bỏ phiếu quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Theo đó, có bốn vấn đề quan trọng sau đây do Quốc hội xem xét, quyết định trưng cầu ý dân.   (Đ 6)

       

     Một là toàn văn Hiến pháp hoặc một số nội dung quan trọng của Hiến pháp.

       

     Hai là vấn đề quan trọng về chủ quyền, lãnh thổ quốc gia, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích quốc gia.

      

     Ba là vấn đề đặc biệt quan trọng về kinh tế-xã hội có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước.

       

     Bốn là vấn đề đặc biệt quan trọng khác của đất nước.

       

     Các trường hợp không tổ chức trưng cầu ý dân.

       

     Theo Điều 9 Luật Trưng cầu ý dân, không tổ chức trưng cầu ý dân trong các trường hợp sau:

        

     Một là không tổ chức lại việc trưng cầu ý dân về nội dung đã được trưng cầu ý dân trong thời hạn 24 tháng kể từ ngày kết quả trưng cầu ý dân được công bố.

        

     Hai là không tổ chức trưng cầu ý dân trong thời gian ban bố tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày bãi bỏ tình trạng chiến tranh, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước.

       

     Việc tổ chức trưng cầu ý dân phải đảm bảo đúng nguyên tắc theo Luật định. Đó là phải đảm bảo để Nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, tăng cường đồng thuận trong xã hội; thực hiện nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín khi trưng cầu ý dân.

       

     Cơ quan nào có quyền đề nghị trưng cầu ý dân?

      

     Theo Điều 14 của Luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị tổ chức trưng cầu ý dân về những vấn đề quan trong theo Luật định. Trên cở sở đề nghị này, Quốc hội xem xét, quyết định có tổ chức trưng cầu ý dân hay không. Nếu Quốc hội ra nghị quyết tổ chức trưng cầu ý dân thì Uỷ ban Thường vụ Quốc hội sẽ quyết định ngày bỏ phiếu trưng cầu ý dân - ngày chủ nhật và được công bố chậm nhất là 60 ngày trước ngày bỏ phiếu trưng cầu ý dân. (Điều 8)

       

     Cuộc trưng cầu ý dân hợp lệ phải được ít nhất ba phần tư tổng số cử tri cả nước có tên trong danh sách cử tri đí bỏ phiếu. Nội dung trưng cầu ý dân khi được quá nửa số phiếu hợp lệ tán thành sẽ có giá trị thi hành. Riêng đối với trưng cầu ý dân về Hiến pháp thì phải được ít nhất hai phần ba số phiếu hợp lệ tán thành. (Điều 44)

        

     Kết quả trưng cầu ý dân trong cả nước do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra nghị quyết xác định và được công bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày bỏ phiếu trưng cầu ý dân. (Điều 48)

         

     Kết quả trưng cầu ý dân có giá trị quyết định đối với vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân và có hiệu lực kể từ ngày công bố. Mọi cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân phải tôn trọng kết quả trưng cầu ý dân và trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức, bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh kết quả trưng cầu ý dân./.


Tài liệu tham khảo:

        -Hiến pháp 1992

        -Hiến pháp 2013

        -Luật Trưng cầu ý dân 2015

        

Ths.Nguyễn Hồng Hoai - Khoa NN-PL

Responsive image
 

 

các tin khác