04:19 16/05/2017
Trong cuộc sống hằng ngày của mọi người và hoạt động quản lý của Nhà nước luôn cần có những thông tin để thực hiện, thay đổi hành vi phù hợp với mục đích, yêu cầu của cá nhân hay chức năng, nhiệm vụ quản lý của nhà nước.
Nhu cầu về tiếp cận thông tin ngày càng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, có tính quyết định trong các hoạt động kinh tế. Với chủ trương hội nhập quốc tế và các luồng thông tin hiện nay vô cùng đa dạng, phức tạp (truyền thanh, truyền hình, báo chí, internet,.....) thì việc ban hành Luật tiếp cận thông tin là thật sự cần thiết.
Ở nước ta, việc công khai những vấn đề liên quan đến đời sống nhân dân đã được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm thể hiện qua việc nâng cao và ngày càng mở rộng các quyền tự do dân chủ của công dân qua các bản hiến pháp; hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở, ở cơ quan hành chính và các đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế.
Quyền tiếp cận thông tin là quyền con người và là quyền cơ bản của công dân thuộc nhóm quyền dân sự - chính trị đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 mà Việt Nam là thành viên. Hiến pháp năm 1992 tại Điều 69 quy định: Công dân có quyền được thông tin. Quyền này được tiếp tục được khẳng định và nâng cao từ "quyền được thông tin" (có tính thụ động) thành "quyền tiếp cận thông tin" (có tính chủ động) tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013.
Luật tiếp cận thông tin được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2018. Về nội dung, Luật gồm 5 chương với 37 điều.
- Trước tiên chúng ta cần tìm hiểu một số khái niệm cơ bản sau
Thông tin là tin, dữ liệu được chứa đựng trong văn bản, hồ sơ, tài liệu có sẵn, tồn tại dưới dạng bản viết, bản in, bản điện tử, tranh, ảnh, bản vẽ, băng, đĩa, bản ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác do cơ quan nhà nước tạo ra.
Tiếp cận thông tin là việc đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp thông tin.
Cung cấp thông tin bao gồm việc cơ quan nhà nước công khai thông tin và cung cấp thông tin theo yêu cầu của công dân.
Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ, kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân; đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Việc hạn chế quyền tiếp cận thông tin phải do luật định trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức hoặc của người khác.
- Một số điểm mới của Luật tiếp cận thông tin 2016
Công dân Việt Nam có quyền tiếp cận thông tin của cơ quan nhà nước. Người nước ngoài cư trú tại Việt Nam có quyền yêu cầu cung cấp thông tin liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của họ. Luật còn quy định rõ quyền tiếp cận thông tin của người dưới 18 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự (thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin thông qua người đại diện theo pháp luật); Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin thông qua người giám hộ). Tuy nhiên không phải công dân có quyền tiếp cận mọi thông tin. Luật quy định rõ những thông tin mà người dân không được tiếp cận hoặc tiếp cận có điều kiện như sau:
Thông tin không được tiếp cận
- Thông tin thuộc bí mật nhà nước thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ và các lĩnh vực khác theo quy định của luật.
Khi thông tin thuộc bí mật nhà nước được giải mật thì công dân được tiếp cận theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Những thông tin mà việc tiếp cận sẽ gây nguy hại đến lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng, an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác; thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin về cuộc họp nội bộ của cơ quan nhà nước; tài liệu do cơ quan nhà nước soạn thảo cho công việc nội bộ.
Thông tin công dân được tiếp cận có điều kiện
Thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh được tiếp cận trong trường hợp chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó đồng ý.
Thông tin liên quan đến bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân được tiếp cận trong trường hợp được người đó đồng ý; thông tin liên quan đến bí mật gia đình được tiếp cận trong trường hợp được các thành viên gia đình đồng ý.
Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, người đứng đầu cơ quan nhà nước quyết định việc cung cấp thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình trong trường hợp cần thiết vì lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng theo quy định của luật có liên quan mà không cần có sự đồng ý của các chủ thể nêu trên (Khoản 3 Điều 7 của Luật tiếp cận thông tin)
Cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin do mình tạo ra hoặc đang nắm giữ. Thời hạn công khai thông tin chậm nhất là 05 ngày làm việc kể từ ngày tạo ra thông tin. Đối với các lĩnh vực có quy định thời gian công khai thì thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan đó.
Người dân có quyền tiếp cận thông tin dưới hai hình thức:
- Trực tiếp đến trụ sở cơ quan nhà nước để yêu cầu tiếp cận thông tin (đọc, chép, sao chụp,….).
- Trường hợp người dân không thể đến cơ quan nhà nước để yêu cầu cung cấp thông tin thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin qua mạng Internet (Email), Fax hoặc gửi qua bưu điện.
Cả hai trường hợp nêu trên người yêu cầu cung cấp thông tin phải trả chi phí thực tế để in, sao, chụp, gửi thông tin (nếu có).
Luật quy định rõ 15 nội dung (thông tin) cơ quan nhà nước phải công khai và các hình thức công khai. Ngoài các hình thức công khai thông thường như: Công khai trên phương tiện thông tin đại chúng; Đăng Công báo; Niêm yết tại trụ sở cơ quan nhà nước; Thông qua việc tiếp công dân, họp báo, thông cáo báo chí, hoạt động của người phát ngôn của cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật, lần này Luật có quy định thêm hình thức :
- Đăng tải trên cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước;
- Các hình thức khác thuận lợi cho công dân.
Trường hợp thông tin do cơ quan nhà nước cung cấp theo yêu cầu không chính xác
- Khi cơ quan nhà nước phát hiện thông tin do mình cung cấp không chính xác thì chậm nhất là 05 ngày làm việc kể từ ngày phát hiện, cơ quan nhà nước có trách nhiệm đính chính và cung cấp lại thông tin cho người yêu cầu.
- Trường hợp người yêu cầu cung cấp thông tin cho rằng thông tin được cung cấp là không chính xác thì có quyền yêu cầu cơ quan đã cung cấp thông tin cung cấp lại thông tin chính xác.
Từ các nội dung nghiên cứu nêu trên, có thể nói việc ban hành Luật tiếp cận thông tin là hết sức cần thiết và phù hợp với xu thế mở rộng các quyền tự do dân chủ của nhân dân và các cam kết thực hiện quyền con người mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết. Đối với giảng viên có thể vận dụng nội dung nghiên cứu này trong các bài giảng về Quản lý hành chính nhà nước, Nhà nước pháp quyền, Pháp luật thực hiện dân chủ ở cơ sở, bài cải cách hành chính hay bài Hệ thống thông tin trong quản lý hành chính nhà nước./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Hiến pháp 1992 (Sửa đổi bổ sung năm 2001);
- Hiến pháp 2013;
- Luật tiếp cận thông tin được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016.
- Vụ pháp chế-Bộ Công Thương, bài Luật Tiếp cận thông tin: Bảo vệ quyền được thông tin của công dân
- TS. Lương Văn Tuấn – Học viện Phụ nữ Việt Nam, bài viết “Quyền Tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay” đăng trang web Ban Tuyên giáo trung ương.
Vũ Quang Hưng - Khoa Nhà nước & pháp luật