Trường Chính trị Tôn Đức Thắng Tỉnh An Giang

Chiến thắng Điện Biên Phủ - chiến thắng của sức mạnh đoàn kết

04:11 04/05/2020

Ngày 7 tháng 5 năm 1954, cách đây 66 năm cả dân tộc Việt Nam và toàn thế giới đã chứng kiến một chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Đó là chiến thắng Điện Biên Phủ, kết thúc 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi thế giới, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức khắp các châu lục Á, Phi, Mỹ Latinh đứng lên đấu tranh giành độc lập, tự do. Là chiến thắng của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, của tinh thần tự lực, tự cường, dù thời gian có trôi đi nhưng tinh thần ấy vẫn tồn tại mãi mãi và khắc sâu trong hàng triệu trái tim người Việt Nam.

 

Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thắng lợi, thực dân Pháp được sự hỗ trợ của các thế lực đế quốc đã quay trở lại xâm lược nước ta. Ngày 19/12/1946, đáp lời Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, nhân dân Việt Nam đã anh dũng bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống kẻ thù xâm lược. Dựa vào sức mình là chính, với vũ khí thô sơ và tinh thần “cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược quân sự của thực dân Pháp. Đến năm 1953, chúng ta đã làm chủ trên các chiến trường, tạo ra sự so sánh lực lượng có lợi cho ta.

Sau những thất bại nặng nề trên chiến trường ở các chiến dịch, để cứu vãn tình thế, tháng 5/1953, thực dân Pháp cử Tướng Hăngri Nava sang Đông Dương làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp với hy vọng cứu vớt danh dự cho nước Pháp. Tướng Nava ra chỉ lệnh thực hiện Chiến dịch Cátxto (Castor) cho quân nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ, xây dựng cứ điểm Điện Biên Phủ thành “pháo đài bất khả xâm phạm”, là “con nhím khổng lồ giữa rừng núi Tây Bắc” mà Nava tự tin rằng sẽ quyết đánh và quyết thắng [2, tr. 175]. Trước tình hình đó, 6/12/1953, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch tác chiến của Tổng quân ủy và quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao toàn quyền quyết định cho Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp với lời dặn: “...Trao cho chú toàn quyền quyết định. Trận này quan trọng, phải đánh cho thắng! Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh” [1, tr.318], với nhận định Điện Biên Phủ là chiến dịch tiến công có tính chất trận địa chiến có quy mô rộng lớn, diễn ra trong thời gian khá dài, tập trung nhiều lực lượng, do vậy, toàn quân phải cố gắng đoàn kết, vượt khó để quyết tâm giành thắng lợi. Ngày 13/3/1954, tiến súng tiến công Điện Biên Phủ bùng nổ. Quán triệt chủ trương chiến lược do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thay đổi phương châm đánh giặc vào giờ phút chót, chuyển từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Người đã chỉ huy toàn quân mở nhiều đợt tiến công.

Từ ngày 13 đến 17/3/1954 với hai trận đánh lớn then chốt đầu tiên là Him Lam và Độc lập, quân ta đã đập vỡ hệ thống phòng ngự của phân khu Bắc và trung tâm đề kháng Bản Kéo của phân khu trung tâm, giành thắng lợi giòn giã, diệt và bắt sống trên 2.000 tên địch, phá hủy 25 máy bay, xóa sổ 1 Trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường Thanh; Pi rốt, Tư lệnh pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ bất lực trước pháo binh của ta đã dùng lựu đạn tự sát [4]. 

Từ ngày 30/3 đến ngày 30/4/1954, quân ta mở đợt tiến công thứ hai, đồng loạt tiến công các cứ điểm phía Đông phân khu trung tâm thắt chặt vòng vây, chia cắt, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho Tập đoàn cứ điểm. Đây là đợt tấn công dai dẳng, dài ngày nhất, quyết liệt nhất, gay go nhất, ta và địch giành giật nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt tại đồi C1 ta và địch giằng co nhau tới 20 ngày, đồi A1 giằng co tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2 khu trung tâm Điện Biên Phủ đã nằm trong tầm bắn các loại súng của ta, quân địch rơi vào tình trạng bị động, mất tinh thần cao độ [4].

Thực hiện quyết tâm đánh phải chắc thắng, Bộ chỉ huy chỉ đạo tiếp tục củng cố và xây dựng trận địa, xiết chặt vòng vây, bao vây đánh lấn, bắn trả làm cho phạm vi phòng ngự của địch bị thu hẹp, đánh chiếm sân bay, triệt nguồn tiếp tế và tiếp viện của địch, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng địch.

Ngày 1/5, đợt tiến công thứ ba của ta bắt đầu trong tình hình quân địch hết sức nguy khốn vì thiếu lương thực, đạn dược, binh lính bị thương nằm chồng chất lên nhau. Tướng Đờ Cátxtơri, Chỉ huy trưởng tập đoàn cứ điểm từ Điện Biên Phủ gửi về Hà Nội chua xót nói: “...tiếp tế lương thực các loại ở mức rất thấp. Chúng tôi không có đủ đạn dược, trang bị vì mất nhiều khi thả dù. Ngay tôi cũng không thể tin rằng sẽ thu được một nữa số lượng những gì thả dù xuống...Trời mưa làm ngập các hầm hào và làm sụp đổ các nơi trú ẩn. Hoàn cảnh binh sĩ bị thương ngày càng trở nên thê thảm. Họ nằm chồng chất lên nhau trong các hố bùn và hoàn toàn không có một tí vệ sinh nào cả” [2, tr.150]. Đến 18 giờ 45 phút ngày 6/5/1954 quân ta mở đợt tiến công vào đồi A1, tiếp tục đánh chiếm cao điểm cuối cùng của địch ở phía Đông. Đến 15 giờ chiều ngày 7/5, quân ta được lệnh mở cuộc tổng công kích đánh thẳng vào sở chỉ huy của địch, quân ta đánh đến đâu địch giương cao đầu hàng ra đến đó. Đúng 17 giờ 30 phút, Tướng Đờ Cátxtơri và toàn bộ quân địch còn lại lũ lượt kéo cờ trắng ra hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân đội ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch.

Như vậy, tại Mặt trận Điện Biên Phủ, sau 55 ngày đêm liên tục chiến đấu, ngày 7/5/1954, quân ta tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch ở tập đoàn cứ điểm. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Quân ta đã tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch. Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ có ý nghĩa lịch sử lớn lao và để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó có bài học về sức mạnh đoàn kết toàn dân tạo nên chiến thắng lịch sử, mở ra bước ngoặt cho cách mạng Việt Nam.

Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ là một trong những đỉnh cao của chiến tranh giữ nước trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó là một Bạch Đằng, một Chi Lăng, một Đống Đa của dân tộc Việt Nam thế kỷ XX. Thắng lợi ấy là tượng trưng cho tinh thần dũng cảm, quyết chiến, quyết thắng, không thế lực nào có thể ngăn cản được. Thể hiện sức mạnh đoàn kết toàn dân từ chiến sĩ ngoài chiến trường đến lực lượng hậu phương chi viện cho tiền tuyến: “Đem toàn lực lượng chi viện cho chiến dịch Điện Biên Phủ và nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này” [2, tr.176], để thực hiện quyết tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Chính phủ. Chiến thắng lịch sử tại Điện Biên Phủ đã thực hiện thành công khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng” và thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “khắp nơi trong cả nước; ở chiến trường chính cũng  như chiến trường phối hợp, ở vùng tự do cũng như vùng sau lưng địch, nhân dân ta đã dồn sức người, sức của cho Mặt trận. Huy động được nhiều lực lượng, phương tiện cơ động... tất cả đều đem hết tinh thần và ý chí làm nên chiến thắng Biện Biên Phủ “lừng lẫy khắp năm châu, chấn động địa cầu”.

 Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ còn là chiến thắng của đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính” của Đảng, đã thực sự phát huy và khơi dậy sức mạnh, tinh thần yêu nước của cả dân tộc, chúng ta đã tạo nên một sức mạnh to lớn của cả nước. Sức mạnh ấy, tinh thần ấy đã khiến cho kẻ thù phải bàng hoàng, kinh ngạc, cúi đầu và cuối cùng phải chấp nhận thất bại. Trong bài viết nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng tư lệnh của chiến dịch Điện Biên phủ nói rằng: “Sức mạnh làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, sức mạnh của toàn dân, của cả nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, chúng ta đã động viên được sức mạnh của toàn quân, toàn dân, từ tiền tuyến đến hậu phương vào trận quyết chiến Điện Biên Phủ. Hàng chục vạn đồng bào đã hăng hái đi dân công, thanh niên xung phong, làm đường, vận tải tiếp tế” [1, tr.399]... Đây được xem là một bài học kinh nghiệm lớn đối với dân tộc ta qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, là tiền đề lớn cho chiến thắng vang dội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tạo nên sức mạnh chiến thắng trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời đại mới.

Tinh thần đoàn kết toàn dân trong chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ thể hiện cụ thể ở hình ảnh đôi bồ, những chiếc xe đạp thồ của lực lượng dân công đã thể hiện sự đồng lòng dốc sức của cả dân tộc cho chiến trường với một quyết tâm giành thắng lợi. Chiến thắng thần kỳ đã trả lời cho câu hỏi Việt Nam chiến thắng là do đâu? Trong tác phẩm Trận Điện Biên Phủ, tướng Giuyn Roa thừa nhận: “Không phải viện trợ của Trung Quốc đánh bại tướng Nava mà là những chiếc xa đạp thồ chở 200 – 300 kg do người đẩy” [2, tr.182]. Chân dung những con người tình nguyện phục vụ cho chiến dịch Điện Biên Phủ, chính là hình ảnh của sức mạnh Việt Nam, tiêu biểu cho truyền thống yêu nước nồng nàn. Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.

Sáu mươi sáu năm đã trôi qua, nhưng tinh thần chiến thắng trong trận địa Điện Biên Phủ vẫn bất diệt, vẫn còn sống mãi trong lòng biết bao nhiêu thế hệ, đặc biệt nhất vẫn là những chiến sĩ Điện Biên năm xưa. Ngày nay đất nước ngày càng đổi thay, đứng trước thời cơ và nhiều thách thức lớn trong công cuộc đổi mới đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần tiếp tục phát huy tinh thần Điện Biên Phủ trong cuộc chiến đấu mới – cuộc chiến chống nghèo nàn lạc hậu, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho toàn dân.

Ngày 7 tháng 5 năm nay là dịp để chúng ta cùng nhau ôn lại kỷ niệm lịch sử hào hùng của dân tộc, một ngày ghi dấu mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam. Đó là, chiến thắng Điện Biên Phủ, kết thúc kháng chiến chống Pháp, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về lập lại hòa bình ở Đông Dương, là ngòi nổ, bàn đạp lớn cho sự thắng lợi của dân tộc ta trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Đây cũng là thắng lợi của sức mạnh đoàn kết toàn dân, sự đồng lòng quyết tâm đánh thắng giặc ngoại xâm, dưới ánh sáng của đường lối kháng chiến đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với ý nghĩa đó, chiến thắng Điện Biên Phủ mãi mãi vẫn còn nguyên giá trị lịch sử lẫn thời đại, là tượng trưng cho tinh thần dân tộc, “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Sự đổi thay kỳ diệu của đất nước trong hòa bình nhắc nhở chúng ta phải ra sức phấn đấu để xứng đáng với sự hy sinh của thế hệ cha anh đi trước. Dù phía trước còn nhiều nguy cơ, thách thức nhưng chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống “Quyết chiến, quyết thắng” của quân và dân ta không ngừng được phát huy, công cuộc đổi mới của đất nước ta sẽ tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn.

Tài liệu tham khảo

1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2013.

2. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2014.

3. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954), http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ho-so-su-kien-nhan-chung/su-kien-va-nhan-chung/chien-thang-lich-su-dien-bien-phu-751954-3368, truy cập ngày 2/5/2020.

4. Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Tài liệu bồi dưỡng Báo cáo viên toàn quốc tháng 4-2014.

ThS. Lê Hữu Lợi - Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở

các tin khác